Cuộc chiến đấu tự nguyện

<< < (9/14) > >>

chuongxedap:

Hướng chủ yếu là Nam đường, hướng phối hợp là Bắc đường 19. Lực lượng chủ yếu là tiểu đoàn 6. Dự bị, cơ động là tiểu đoàn 5. Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị:

- Tiểu đoàn 6: Đại đội 61, trong đêm N, rạng sáng N2, sau khi lực lượng đặc công tập kích, đánh chiếm chốt Cây Rui của một đại đội Nam Triều Tiên, vào chốt giữ, được chi viện hỏa lực của trung đoàn, chặn cắt giao thông tiếp tế của địch tại đỉnh đèo An Khê.

Tiểu đoàn 6 thiếu đại đội 61, tổ chức hai chốt giao thông gồm:

Chốt tại cao điểm 384, do đại đội 62 đảm nhiệm; chốt tại Cống Hang Dơi do đại đội 63 đảm nhiệm. Sở chỉ huy (vị trí chỉ huy) của tiểu đoàn 6 triển khai phía Nam núi Cây Rui, sau đó cơ động xuống phía Nam đường 19 đèo An Khê để chỉ huy trong thời gian cắt đường.

Đại đội đặc công (sư đoàn tăng cường): Đêm N rạng sáng N2, tập kích đại đội Nam Triều Tiên đóng tại núi Cây Rui, sau đó bàn giao trận địa cho đại đội 61 chốt giữ. Công binh trung đoàn và tiểu đoàn 6, rạng sáng N2 đánh sập Cống Hang Dơi, sau đó làm lực lượng cơ động, cùng đại đội 63 đánh địch phản kích, giữ vững chốt Hang Dơi, cắt đứt vận chuyển tiếp tế của địch qua đèo An Khê.

- Tiểu đoàn 5 làm lực lượng dự bị, cơ động cùng với các trận địa hỏa lực của trung đoàn, chiếm lĩnh khu vực núi Ông Bình, sẵn sàng phối hợp với tiểu đoàn 6, đánh địch phản kích, giải tỏa đường 19 tại đèo An Khê đến cầu Suối Vối, phía Đông thị trấn An Khê (Gia Lai).

Đối với trung đoàn 12, đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ đánh giao thông, cắt đường 19 với yêu cầu rất cao: Cắt đứt mọi sự vận chuyển tiếp tế của địch từ vùng đồng bằng lên Tây Nguyên, thời gian dài ngày, trong điều kiện xa sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của sư đoàn.

Về phía địch: Do vị trí hết sức quan trọng của tuyến đường 19 đối với sự sống còn của các lực lượng đồn trú và hệ thống chính quyền của địch ở vùng cao nguyên; đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bố trí tại đây (chủ yếu tại đèo An Khê xuống xã Bình Nghi trên trục đường 19) cả một sư đoàn thiện chiến “Mãnh Hổ” và nhiều tiểu đoàn bảo an, bảo vệ. Khi cần chúng có thể tung các trung đoàn chủ lực cơ động lên giải toả. Cuộc chiến đấu ở đây sẽ diễn ra ác liệt giữa lực lượng giữ chốt, cắt đường của bộ đội ta với lính Nam Triều Tiên, từ trên các chốt dọc đường đèo tiến công xuống và từ phía Đông tấn công lên phản kích, giải tỏa.

Thời điểm trước khi mở màn chiến dịch, thế và lực giữa ta và địch trên khu vực này rõ ràng không cân sức. Tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía địch.

Để chuẩn bị cho nhiệm vụ, ngay từ những tháng cuối năm 1971, đầu năm 1972, trung đoàn đã có một thời gian chuẩn bị khá chu đáo. Đến tháng 3 năm 1972, với sự nỗ lực của tất cả các đơn vị, được sự giúp đỡ chỉ đạo của bộ tư lệnh, các cơ quan sư đoàn, trung đoàn 12 đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị. Đặc biệt là tiểu đoàn 6 vừa hoạt động thường xuyên, vừa chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ. Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đã động viên toàn bộ chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên nỗ lực cao nhất cho nhiệm vụ chiến đấu sắp tới. Tất cả những nhu cầu về lương thực, đạn dược, khí tài và cả những vật liệu để xây dựng trên trận địa... từ căn cứ xa hàng chục km, vượt qua núi cao, rừng rậm, được đưa đến tuyến tập kết. Không thể nào tính hết được bao nhiêu tấn cơ sở vật chất phục vụ cho chiến đấu của một tiểu đoàn tăng cường, trong thời gian hàng tháng trời. Tất cả được vận chuyển bằng đôi vai và đôi chân của bộ đội. Từ cán bộ tiểu đoàn đến người chiến sĩ; từ lực lượng trực tiếp chiến đấu đến đội ngũ nhân viên chuyên môn và cơ quan, tất cả đều là lực lượng vận tải và sau này, tất cả đều là những “Dũng Sỹ” kiên cường trụ bám trên đường 19...

Đầu năm 1972, sau Tết nguyên đán, Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Trị Thiên - Bắc Kontum và Bình Long; đồng thời các mặt trận trên toàn chiến trường miền Nam ra sức hoạt động phối hợp để “chia lửa” với các chiến trường chính. Mặt trận B3 và vùng đồng bằng Khu 5 bắt đầu hưởng ứng, phối hợp.

Mở đầu chiến dịch Xuân Hè năm 1972, trên đường quốc lộ số 19, là trận tập kích của đại đội đặc công ta vào chốt Cây Rui.

Chốt Cây Rui nằm trên một ngọn đồi phía Nam đỉnh đèo An Khê, do một đại đội lính Nam Triều Tiên chốt giữ. Đứng ở cao điểm 638, phía nam núi Cây Rui, có thể quan sát hầu như toàn bộ đèo An Khê, cả phía đông và phía tây. Hệ thống vật cản tại chốt là 4 lớp rào kẽm gai, xen kẽ mìn sát thương bộ binh. Bên trong là công sự kiến cố. Chi viện cho chốt Cây Rui là hệ thống hỏa lực được tổ chức chặt chẽ. Ngoài các trận địa hỏa lực bắn thẳng và cầu vồng trên các chốt thuộc dãy núi Ông Bình và các đồn bót dọc đường đèo, còn có các trận địa pháo ở Đồn Phó, Vĩnh Thạnh, An Xuân tỉnh Bình Định và thị trấn An Khê, tỉnh Gia Lai có thể chi viện bất cứ lúc nào.

Từ khi sang Việt Nam, trên chiến trường khu 5, lính Nam Triều Tiên đã bị quân ta tiến công không những lúc chúng đi càn quét, và cả khi chúng đóng quân trong căn cứ. Tháng 12 năm 1966, trung đoàn bộ binh 1, thuộc sư đoàn 2 quân khu 5, đã tiêu diệt một tiểu đoàn tăng cường lính Nam Triều Tiên trong công sự vững chắc tại đồi Tranh, xã Quảng Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 10-1-1967 một lực lượng của sư đoàn 2 tiêu diệt tiếp một đại đội lính Nam Triều Tiên tại An Điềm bằng chiến thuật phục kích. Bọn chỉ huy thường tuyên truyền xuyên tạc rằng: Nếu Việt Cộng bắt sẽ bị moi gan, mổ bụng, chặt đầu, nên lính Nam Triều Tiên rất ngoan cố, không để bị bắt sống, lại càng không chịu đầu hàng. Nếu bị bắt sống, chúng sẽ tự tử. Đến nay, lịch sử Việt Nam còn ghi đậm nét tội ác của lính Nam Triều Tiên, dưới thời tổng thống Păk Chung Hy đối với nhân dân ta ở tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và nhiều nơi khác.

chuongxedap:

Đêm ngày 9-4 tất cả các lực lượng làm nhiệm vụ chiến đấu tại đèo An Khê của trung đoàn bộ binh 12 đã triển khai xong kế hoạch. Một tình huống bất ngờ xảy ra: đại đội đặc công tiếp cận chốt Cây Rui bị lộ ngay tại lớp hàng rào kẽm gai đầu tiên, không thực hiện được đánh chốt địch bằng “mật tập”.

Cuộc chiến đấu ác liệt trên đường đèo An Khê bắt đầu tại núi Cây Rui, một bộ phận lính Nam Triều Tiên ra khỏi căn cứ, triển khai giữa các lớp hàng rào, làm công sự bằng bao cát, cố thủ. Ngay từ sáng sớm 10-4, những trận mưa bom, bão đạn đã dội xuống xung quanh núi Cây Rui. Điểm cao 638 rung chuyển.

Từ ngày 10-4 trở đi, trên núi Cây Rui có hai đại đội: đại đội 61 của ta và đại đội lính Nam Triều Tiên. Địch trong chốt, có công sự vững chắc, có hàng rào kẽm gai xen kẽ mìn sát thương bộ binh; Các mỏm đồi đối diện, phía Bắc đường 19 có các chốt có thể chi viện trực tiếp cho chúng ở chốt Cây Rui bằng bộ binh và hỏa lực. Các trận địa pháo ở Đồn Phó, Vĩnh Thạnh, An Xuân kết hợp với hỏa lực hai bên đường đèo, tạo thành lưới lửa ken dày xung quanh chốt Cây Rui.

Đại đội 61 của ta trong đêm 9-4, do tình huống đặc công bị lộ, như đã nói ở trên, công sự chưa hoàn chỉnh; ngay từ ngày đầu tiên đã bị tổn thất bởi đạn pháo và máy bay địch oanh tạc.

Lực lượng trực tiếp tiếp xúc với chốt địch đã phải chiến đấu bằng lựu đạn, tiểu liên. Dưới sự chỉ huy của tham mưu trưởng tiểu đoàn Nguyễn Hữu Thông, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Tài và chính trị viên Ninh Văn Xá, đại đội 61 đã bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân Nam Triều Tiên, giữ vững trận địa đến ngày thứ 7. Núi Cây Rui - điểm cao 638, nơi đại đội 61 đang chốt giữ, ngày 9- 4 còn là rừng già, cây cối rậm rạp; sau một ngày chiến đấu ác liệt bom, đạn địch cày xới tan hoang, biến quả đồi thành một màu đỏ quạch. Từ đây, chốt Cây Rui đã đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca bất diệt, là niềm tự hào của quân và dân tỉnh Bình Định, Quân khu 5 và của trung đoàn bộ binh 12, sư đoàn Sao Vàng. Đã có nhạc sĩ sáng tác bài hát về chốt Cây Rui “Như hình ảnh Ngô Mây đã in vào vách núi... Chiến sỹ Cây Rui vẫn lăn mình trong bão đạn...”.

Địch chưa chiếm lại được chốt Cây Rui của ta thì đường 19 chưa thể thông suốt được. Chốt Cây Rui của ta vẫn hiên ngang đứng đó, như cái gai trước mắt đối với binh lính Nam Triều Tiên. Chúng tập trung mọi cố gắng đánh chiếm.

Các lực lượng “tinh nhuệ” của địch được điều đến thay quân. Chúng căng vải đỏ, ném hỏa mù phân tuyến cho máy bay, pháo binh tiếp tục dội bom, đạn xuống, hết đợt này đến đợt khác. Dứt bom, pháo, bộ binh địch ào ạt xung phong lên chốt của ta. Cuộc chiến đấu càng lúc càng quyết liệt. Địch cố đẩy bật lực lượng của ta ra khỏi chốt; ta quyết bám trụ, đẩy lực lượng của chúng xuống sườn đồi. Hai bên đã diễn ra những trận đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, bằng súng và tay không.

Có nhiều gương chiến đấu của bộ đội ta vô cùng dũng cảm1. Xung quanh chốt Cây Rui, xác giặc ngổn ngang, song đại đội 61 của ta, quân số cũng vơi đi nhiều...

Các đợt tấn công lên chốt bị thất bại, ngày 23-4 địch đã sử dụng đến vũ khí hoá học. Từ các trận địa pháo, đạn hơi cay của địch đã bao trùm lên trận địa của đại đội 61, bọn Nam Triều Tiên đeo mặt nạ phòng độc lại ào ạt tấn công lên chốt. Tham mưu trưởng Thông, đại đội trưởng Tài lần lượt hy sinh. Phó đại đội trưởng Vũ Xuân Quỳnh lên thay thế. Đến ngày 24-4, đại đội 61 chỉ còn lại quân số bằng một tiểu đội. Vũ Xuân Quỳnh, sau khi đã tiêu diệt được nhiều hỏa điểm của địch đã anh dũng hy sinh. Song, những người còn lại vẫn hiên ngang giữ vững trận địa trong khói lửa mịt mù...

Tại cao điểm 384, ngay từ ngày 10-4, địch đã sử dụng hỏa lực bắn phá dồn dập trong điều kiện đại đội 62 của ta chưa xây dựng được công sự hoàn chỉnh. Sau các đợt bom, pháo, bộ binh địch tấn công lên chốt của ta với cường độ và quy mô ngày càng tăng.

Ngày 18-4, địch đã dùng đến 2 tiểu đoàn, từ phía bắc và phía đông ào ạt tấn công lên cao điểm. Đại đội 62 kiên cường trụ bám, đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, tiểu đoàn phó chính trị Đề, đại đội trưởng Đồng Xuân Soạn và 8 chiến sĩ vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng trên cao điểm 384...

Ở chốt thứ ba - Cống Hang Dơi: Cống Hang Dơi nằm gần chân đèo An Khê về phía Đông, thuộc phần đất của tỉnh Bình Định. Xung quanh phía Bắc và Nam có các chốt của địch như Chóp Vung, điểm cao 231, Hòn Kiềng Nam đường 19, các cao điểm thuộc sườn phía Nam dãy núi Ông Bình, khống chế. Phía Đông là ấp Vườn Xoài, và cao điểm 105. Cống Hang Dơi lọt thỏm vào giữa, nằm trong tầm bắn có hiệu quả của các loại hỏa lực của địch. Đại đội 63 đã thiết lập điểm chốt ngay tại Cống Hang Dơi. Đêm 9, rạng sáng 10-4 lực lượng công binh đã đánh sập một phần Cống Hang Dơi. Cũng như cụm chốt Cây Rui và cao điểm 384, sáng 10-4 địch đã tiến hành phản kích, giải tỏa, nhằm khôi phục lại cống đã bị ta đánh sập và đang chốt giữ.

Phối hợp với đại đội 61 ở chốt Cây Rui, đại đội 62 ở cao điểm 384, đại đội 63 và đại đội công binh ở Cống Hang Dơi, dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng, trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải và Nguyễn Đình Tấn... đã đánh lui nhiều đợt phản kích giải tỏa của bộ binh và xe tăng địch từ hướng Đông tấn công lên. Ngay trong ngày đầu tiên bộ đội ta đã diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy 4 xe tăng, xe thiết giáp và một máy bay lên thẳng.
_______________________________________
1. Sư đoàn Sao Vàng - Nxb. Quân Đội Nhân Dân - Hà Nội 1984.

chuongxedap:

Sau những trận đầu tiên, thua đau, địch như con thiêu thân, tung hết tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác; có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ đã mở nhiều đợt tấn công vào cống Hang Dơi. Từ ngày 10 đến 17-4 cuộc chiến đấu tại cống Hang Dơi đã diễn ra vô cùng ác liệt, địch tập trung lực lượng tấn công dồn dập vào cống Hang Dơi. Giữa bốn bề khói lửa mịt mù, chốt Hang Dơi vẫn giữ vững. Từ cán bộ đến chiến sĩ, từ lực lượng chiến đấu đến lực lượng phục vụ đều tiêu diệt được địch, lập công xuất sắc; kiên cường giữ chốt. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Phương Nam với 2 loạt đạn tiểu liên diệt 2 tên lính Nam Triều Tiên ngay trước cửa cống 3 mét; Tiểu đội trưởng Hà Sỹ Hạ, một xạ thủ súng B41, trong nhiều trận đánh phục kích giao thông trước đây, vì trình độ “thiện xạ”, được giao nhiệm vụ “chuyên trách”, đánh chặn đầu, đã bắn cháy nhiều xe vận tải quân sự của địch. Dù mục tiêu ở cự ly xa 500 - 1.000 mét Hạ đều bắn trúng. Lần này, tại cống Hang Dơi, Hạ đã bắn liên tiếp 9 quả đạn B41 diệt nhiều hỏa điểm và xe tăng, xe thiết giáp của địch; Chiến sĩ thông tin Nguyễn Kiên Cường, ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, Cường đã cùng đồng đội đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch và bắt sống được một tù binh Đại Hàn khi chúng đột nhập vào cống Hang Dơi. Tổ chiến đấu của trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải bắn cháy 3 xe thiết giáp, bẻ gẫy hoàn toàn một mũi tấn công của địch... và còn rất nhiều, rất nhiều gương chiến đấu dũng cảm, từ đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng đến các chiến sĩ; lợi dụng ưu thế về địa hình có lực lượng tiêu diệt địch trước công sự, có lực lượng cơ động đánh tạt sườn... làm cho đội hình địch bị rối loạn. Kể cả những trận đánh giáp lá cà, địch vẫn bị áp đảo bởi tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của cán bộ chiến sĩ ta.

Cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt, xác giặc chết ngổn ngang dọc đường đèo. Lực lượng chi viện cho chúng cũng đang bị ta kìm giữ ở khắp nới. Các trận địa pháo bị ta chế áp. Tin vui chiến thắng của quân ta từ mặt trận Tây Nguyên, mặt trận Quảng Trị, Đông Nam Bộ và nhiều nơi khác bay về càng động viên khích lệ bộ đội, nâng cao khí thế quyết tâm diệt giặc lập công, đánh bại mọi cuộc phản kích giải tỏa của địch, giữ vững trận địa. Đặc biệt, tin sư đoàn hoạt động ở Bắc tỉnh Bình Định tiêu diệt gọn chiến đoàn đặc nhiệm số 40 ở Hòn Bồ, (19-4) giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân làm nức lòng cán bộ, chiến sỹ trung đoàn 12.

Huyện ủy Gia Lai, huyện ủy Bình Khê, tỉnh Bình Định, huy động mọi lực lượng, phục vụ trung đoàn 12 chiến đấu. Bất chấp bom, pháo và bộ binh địch phản kích, cản đường, từng đoàn dân công, các đội xung kích phục vụ hoả tuyến,... mang lương thực, thực phẩm đến tận trung đoàn. Những gùi sắn, chuối, rau...của đồng bào các dân tộc tỉnh Gia Lai, cũng được gửi đến cho chiến sĩ. Đó là sự cổ vũ, nguồn động viên to lớn của nhân dân đối với cả trung đoàn 12.

Đêm 20-4-1972, mười ngày sau khi mở chiến dịch, trung đoàn 12 nhận được điện của khu ủy và quân khu ủy khu 5 gửi xuống: “Nhiệt liệt khen ngợi cán bộ, chiến sỹ trung đoàn 12, đã chiến đấu rất dũng cảm. Địch ở Tây Nguyên đang khốn đốn. Chúng sẽ còn cố sức giải toả đường số 19. Cuộc chiến đấu sẽ quyết liệt dữ dội hơn. Các đồng chí hãy nêu cao quyết tâm, công sự phải vững chắc hơn, đánh địch phải linh hoạt hơn, để làm chủ mặt đường triệt để hơn...”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ quốc phòng, trực tiếp điện thẳng cho trung đoàn bộ binh 12, khen ngợi: “Các đồng chí đã đứng vững như bàn thạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giai đoạn đầu cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung...”.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên tư lệnh mặt trận B3 lúc đó cũng gửi điện: “Cảm ơn chiến sỹ trung đoàn bộ binh 12 đã anh dũng cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung...”.

Đối với binh lính Nam Triều Tiên, từ khi sang chiến trường Việt Nam “đánh thuê”, đây là lần đầu tiên, lực lượng của Sư đoàn “Mãnh Hổ” - Đại Hàn đóng chốt nơi đây đã bị tổn thất nặng nề. Lực lượng còn lại ở trên các chốt không dám bung ra khỏi công sự, vũ khí, đạn dược, lương thực bị tiêu hao, không được tiếp tế, bổ sung. Lính chết không lấy được xác, lính bị thương không chuyển đi được. Đường bộ bị cắt, đường không bị khống chế. Tình cảnh vô cùng bi đát đối với binh lính Nam Triều Tiên. Ở chính quốc, Tổng thống Pắc Chung Hy bị chỉ trích gay gắt, nhân dân Hàn Quốc phản đối quyết liệt. Bọn địch ở Tây Nguyên rất khốn đốn, vì không được tiếp tế. Tại đèo An Khê, địch tập trung mọi cố gắng giải tỏa; ta kiên quyết cắt đứt tiếp tế của địch. Vì vậy cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt.

Tại cống Hang Dơi, và chân đèo, thuộc phần đất tỉnh Bình Định nơi có một bộ phận đại đội 63 chốt giữ, một toán lính Đại Hàn 5 - 6 tên, trong đó có một tên mang máy ảnh, từ dưới chân đèo đột nhập vào cống này. Khi chúng vừa vào bên trong, lực lượng ta tiêu diệt được mấy tên và bắt sống 2 tên. Anh em đưa chúng vào trong cống để đưa về tuyến sau, trước mắt khai thác chúng để phục vụ cho chiến đấu ở đây, sau đó mới bàn giao cho sư đoàn. Nhưng một tên cương quyết không chịu đi. Anh em trói, cho lên cáng khiêng, nó lăn xuống đất đập đầu tự tử. Tên còn lại đưa được về phía sau. Cơ quan địch vận đem máy ghi âm và cho phiên dịch tiếng Hàn Quốc xuống, giải thích chính sách của mặt trận, vận động nó kêu gọi lính đầu hàng, phản chiến. Tiểu đoàn đã cho ghi âm, phát trên loa phóng thanh, trên các chốt dọc đường 19. Tên tù binh này, sau đó được ta phóng thích.

Trung đoàn nhận định, thế nào địch cũng tập trung mọi khả năng, giải toả bằng được đường số 19. Trước hết chúng sẽ đánh chiếm Cây Rui, uy hiếp cống Hang Dơi đang bị đại đội 63 chiếm giữ.

Trung đoàn trưởng trung đoàn 12 quyết định, rút bớt một số chốt phụ để tăng cường lực lượng bảo vệ Cây Rui. “Còn Cây Rui thì cống Hang Dơi còn đứng được, còn cắt được đường”. Trận địa hỏa lực di chuyển vào gần Cây Rui để chi viện có hiệu quả hơn cho lực lượng giữ chốt.

Từ ngày 23 đến tối ngày 24-4, tài núi Cây Rui đã diễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt giữa lực lượng còn lại của đại đội bộ binh 61 với lính Đại Hàn.

Trước tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ đại đội 61, trận địa ta vẫn đứng vững. Song, đại đội bộ binh 61, chiều 24-4 chỉ còn lại 5 đồng chí, dưới sự chỉ huy của chính trị viên đại đội Ninh Văn Xá; cũng là lúc lực lượng cơ động của tiểu đoàn lên tiếp sức. Tại cống Hang Dơi, đại đội 63 và công binh, sau những đợt phản kích ác liệt của địch, đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng lần lượt bị hy sinh; Trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải lên thay thế... Trung đội trưởng hy sinh, chiến sĩ lên thay thế… và cuộc chiến đấu tại chốt Hang Dơi vẫn tiếp tục.

chuongxedap:

Đêm hôm ấy, sau 14 ngày chiến đấu ác liệt, đường 19 hoàn toàn bị cắt đứt tại đèo An Khê, trung đoàn bộ binh 12 được lệnh chấm dứt đợt 1, chuẩn bị cho đợt 2, với cách đánh sở trường của mình “phục kích vận động”, tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch trên đường 19, tiếp tục biến đoạn đường này thành lò thiêu cháy mọi cơ sở vật chất hậu cần tiếp tế lên Tây Nguyên của chúng. Ngày 25-6 tại phía Tây đèo An Khê dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Nguyễn Duy Thương và chính ủy Lê Huẩn đã diễn ra trận đánh phục kích vận động phá hủy đoàn xe vận tải 35 chiếc, có 10 xe tăng, xe bọc thép, diệt và bắt 318 tên, bắn rơi 3 máy bay, ghi thêm chiến công mới trong lịch sử truyền thống của trung đoàn bộ binh 121.

Trong trận này, tiểu đoàn 6 là lực lượng chủ công, cùng với các trận địa hỏa lực của trung đoàn, bố trí phía nam đường 19, từ suối Vối đến chân núi Cây Rui (phía đông thị trấn An Khê). Tiểu đoàn 5 là lực lượng đối diện, bố trí phía bắc đường 19.

Trong một trận phục kích vận động khác cũng trên đường số 19, trung đoàn bộ binh 12 đã tiêu diệt và phá hủy 54 xe quân sự của địch vận chuyển tiếp tế lên Tây Nguyên, trên đoạn đường từ xã Bình Nghi lên Đồn Phó2.

Cuộc chiến đấu diễn ra trong suốt thời gian 18 ngày đêm trên đường 19, đèo An Khê của trung đoàn bộ binh 12, sư đoàn Sao Vàng thật oanh liệt. Trung đoàn bộ binh 12, thiếu tiểu đoàn 4 đã phải chiến đấu với sư đoàn “Mãnh Hổ” thiện chiến, trang bị đầy đủ, trực tiếp là trung đoàn 24 và nhiều tiểu đoàn bảo an, có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ. Cán bộ chiến sĩ trung đoàn 12 đã thể hiện ý chí sắt đá, lòng dũng cảm vô song, khí phách anh hùng, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, quyết không rời trận địa.

Thắng lợi của trung đoàn bộ binh 12 trên đường 19, trong chiến dịch Xuân 1972, một lúc đã hoàn thành được hai nhiệm vụ: Cắt đứt hoàn toàn sự tiếp tế của địch từ vùng đồng bằng lên Tây Nguyên, trong một thời gian khá dài; làm cho lực lượng của chúng trên chiến trường cao nguyên vô cùng khốn đốn; đồng thời ta đã kìm chân sư đoàn “Mãnh Hổ” và một bộ phận quân đội Sài Gòn tại đây tạo điều kiện cho sư đoàn 3 giành thắng lợi lớn ở chiến trường bắc Bình Định, giải phóng nhiều vùng quan trọng. Sư đoàn “Mãnh Hổ” bị thiệt hại nặng trên đường 19, đã phải nằm tại chỗ, “án binh, bất động” cho đến ngày cuốn cờ về nước.

Trước khi triệt thoái khỏi chiến trường Việt Nam, tại đỉnh đèo An khê, chúng đã dựng bia để gọi là tưởng niệm những tên lính đã chết tại đây. Trên tấm bia mang dòng chữ “Nơi đây quân đội Nam Hàn đã đánh những trận đẫm máu với trung đoàn 12 Bắc Việt để bảo vệ lãnh thổ chính thể Việt Nam Cộng hòa”.

Gần đây đầu năm 2004, trước khi qua đời, thiếu tướng Lê Huẩn, nguyên chính ủy trung đoàn 12, trong những năm 1971-1972, kể lại rằng: Có một đoàn làm phim viết sử của Hàn Quốc sang Việt Nam tìm hiểu những trận đánh trên đường 19 đầu năm 1972, họ cũng gọi là “các trận đánh ở Cây Rui” và nói rằng: Trong lịch sử quân đội Hàn Quốc có ghi “Đây là trận đánh đẫm máu nhất của lính Nam Hàn ở Việt Nam, trung đoàn 24 của sư đoàn Mãnh Hổ có 1150 binh sĩ chết, bị thương, bị bắt...”. Tấm bia do quân đội Đại Hàn dựng lên ở đỉnh đèo An Khê, sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đã bị ai đó đập phá. Tuy nhiên, sự tích anh hùng của trung đoàn 12, đánh cắt giao thông trên đường 19 trong chiến dịch xuân năm 1972 đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 3 Sao Vàng, của quân dân tỉnh Bình Định và Quân khu 5.

Trong những ngày cả nước ta tổ chức kỷ niệm lần thứ 30, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, một tổ làm phim của đài truyền hình KBS Hàn Quốc, được sở ngoại vụ TP.HCM giới thiệu đến gặp tôi và một số đồng chí đã trải qua những năm chiến đấu với binh lính Hàn Quốc tại đường số 19 - Quân khu 5, xin được cung cấp một số tình hình về sư đoàn “Mãnh Hổ”. Họ cho biết thời tổng thống Pắc Chung Hy đã lừa dối nhân dân Hàn Quốc, bưng bít sự thật về quân đội của họ tham chiến ở Việt Nam. Họ phải đi tìm sự thật. Song, dù có nói lên điều gì đi chăng nữa, họ cũng không thể hiểu một cách đầy đủ về sự thất bại thảm hại của sư đoàn mang tên “Mãnh Hổ”, một trong những đơn vị được cho là thiện chiến nhất của đội quân đồng minh với Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên, tôi cũng đã nói với họ rằng: “Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên những đau thương, mất mát do quân đội các nước gây ra cho đất nước này. Cảm ơn nhân dân Hàn Quốc - những người yêu chuộng hoà bình, đã đấu tranh phản đối nhà cầm quyền dưới thời Pak Chung Hy làm tổng thống, đã đem quân sang chiến trường Việt Nam, tiếp tay cho Mỹ. Ngày nay, Hàn Quốc là một trong những quốc gia đầu tư vào Việt Nam lớn nhất. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đang trên đà phát triển tích cực. Mong rằng lịch sử quân đội Hàn Quốc không lập lại ở Việt Nam một lần nữa!...”.

Đối với thế hệ chúng ta, thiết nghĩ, nên xây dựng tại đỉnh đèo An Khê một công trình lịch sử - văn hóa, chí ít cũng là một tượng đài liệt sĩ, ghi danh những cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã chiến đấu, hy sinh tại đây, để các thế hệ mai sau được biết đến những chiến công oanh liệt, góp phần giải phóng Tây Nguyên dẫn đến chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm 1975.
__________________________________________
1, 2. Sư đoàn Sao Vàng - Nxb. QĐND - Hà Nội 1984.

chuongxedap:

SAU HIỆP ĐỊNH PARIS

Cuối năm 1972, chính quyền Sài Gòn liên tục xua quân nống ra đánh phá vùng giải phóng của ta. Trên địa bàn tỉnh Bình Định, lực lượng chủ lực quân đội Sài Gòn có sư đoàn 22 bộ binh và hai liên đoàn biệt động số 4 và số 6. Nhưng lực lượng địa phương quân khá đông. Trước khi hiệp định Paris được ký kết, địch tung lực lượng ra vùng giải phóng của ta, tranh thủ chiếm đất, giành dân. Nống ra đến đâu, chúng cắm cờ và xây dựng đồn bót đến đó. Do thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam, và sau thắng lợi của quân và dân ta ở miền Bắc trong “chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng, buộc đế quốc Mỹ phải quay lại ngồi vào bàn hội nghị và ký kết hiệp định Paris với ta vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Hội nghị Paris kéo dài gần 5 năm với trên 350 cuộc họp công khai và bí mật, Đảng ta đã rất khéo kết hợp đường lối quân sự với chính sách ngoại giao, buộc đế quốc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Chiến lược chiến tranh cục bộ của chúng bị thất bại hoàn toàn. Đây là thắng lợi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của quân và dân ta, mở ra thời cơ chiến lược mới, có lợi cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.

Lúc bấy giờ nhiều người nghĩ rằng: Sau khi hiệp định Paris được ký kết, Việt Nam sẽ có hòa bình, sẽ không còn những cuộc hành quân càn quét bằng bộ binh, xe tăng của địch như trước, sẽ không phải nằm ngủ dưới hầm vì máy bay, pháo binh của chúng. Thế nhưng, trước và sau hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu càng ngoan cố hơn, chúng mở những đợt hành quân quy mô trên cả ba vùng chiến lược, hòng thu hẹp vùng giải phóng của ta. Lúc đầu quy mô nhỏ, sau đó quy mô lớn diễn ra không gian rộng, kéo dài rất ác liệt.

Trước tình hình đó trên địa bàn 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, sư đoàn bộ binh 2 cùng vời sư đoàn bộ binh 3 (chủ yếu trung đoàn 12), Quân khu 5, nhanh chóng đánh chiếm một số mục tiêu trên khu vực tiếp giáp giữa 2 tỉnh: Phía bắc Bình Định từ khu vực Chương Hòa đến Tam Quan; thuộc huyện Hoài Nhơn, phía nam tỉnh Quảng Ngãi, từ xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ) đến đèo Bình Đê phía nam Sa Huỳnh, tạo nên thế liên hoàn giữa hai tỉnh hàng chục km, có cảng biển Sa Huỳnh và Trường Xuân. Đồng thời kiên quyết bảo vệ vùng giải phóng, và những địa bàn có tính chiến lược của giai đoạn sau hiệp định Paris đối với chiến trường khu 5: đó là Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định).

Tình hình tư tưởng lúc bấy giờ diễn biến theo hai chiều hướng. Thứ nhất, tỏ ra rất lạc quan. Vấn đề này có lý do của nó. Khi thời gian hiệp định có hiệu lực, trên chiến trường nói chung hầu như im tiếng súng. Chúng ta có quyền tận hưởng những ngày tháng thanh bình đầu tiên sau bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ, ác liệt.

Tại các ranh giới giữa hai bên, đã ấn định những địa điểm và thời gian để đại diện hai phía gặp nhau. Nhân dân được đi lại giữa hai vùng. Đây là một thời điểm vô cùng quý giá để chúng ta có điều kiện hoàn thiện thêm về nhiều mặt, phòng ngừa phía bên kia tráo trở, phá bỏ Hiệp định.

Những người đã trải qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, ắt hẳn đã quá hiểu bản chất của kẻ thù. Không một ai có ảo tưởng chút nào về hòa bình sau khi Hiệp định Paris ký kết.

Song, những gì đã đem lại cho chúng ta cái không khí yên bình là một thực tế hiển nhiên mà chúng ta đang tận hưởng trên chiến trường vừa mới im tiếng súng. Trong lòng người lính luôn cảm thấy lâng lâng, tựa như không khí của những ngày sau hòa bình được lập lại trên miền Bắc vào năm 1954.

Bộ đội đã bắt đầu chuyển xuống vùng đồng bằng, đóng quân trong nhà dân, xây dựng nơi ăn, ở, nơi hội họp, giao ban, bắt đầu duy trì nề nếp sinh hoạt chính quy huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Trong các vùng dân cư đông đúc, chợ búa, trường học đã mở trở lại. Tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng rõ ràng là cuộc sống về vật chất cũng như tinh thần của quân và dân các nơi này được cải thiện đáng kể.

Cuộc sống nhộn nhịp ở các vùng giải phóng của ta đã có tác động nhất định đối với binh lính ngụy quyền Sài Gòn. Thời gian này chúng ta lại đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tiến công đối phương bằng công tác binh vận. Đây là một mũi tiến công sắc bén vào tinh thầu chiến đấu của lực lượng phía bên kia.

Chiều hướng thứ hai, chủ yếu là các lực lượng trực tiếp tiếp xúc với địch. Tuy rằng so với những năm trước đây, cuộc chiến đấu có “nhẹ” bớt, song không khí chiến tranh vẫn bao trùm lên trên hết. Cái yên tĩnh ở đây giống như ở vùng mắt bão, giống như khoảng lặng giữa hai đợt chiến đấu, làm cho mỗi bên cảnh giác hơn, sẵn sàng chiến đấu cao hơn.

Tại tỉnh Bình Định, địa bàn do sư đoàn bộ binh số 3, Quân khu 5 đảm nhiệm, luôn sôi động. Bọn lính bảo an, dân vệ, biệt động và cả lính Cộng hòa nống ra vùng giáp ranh xung quanh Du Tự, núi Chéo, cầu Giáo Ba, quận lỵ Hoài Ân. Ở huyện Hoài Nhơn chúng nống lên các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Sơn dãy cao điểm 209, khu vực tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi. Tại huyện Phù Mỹ chúng nống ra các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Trinh, Mỹ Lộc... Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, địch cũng nống ra hầu hết vùng giáp ranh thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ... và nhiều nơi khác.

Đánh địch nống lấn là một giai đoạn không kém phần quyết liệt. Giữa ta và địch đã có phân tuyến. Mỗi bên đều có những nỗ lực, cố gắng giữ đất, giành dân, mở rộng vùng kiểm soát.

Khác với những năm 1966 - 1967, khi quân Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, điều kiện chưa cho phép chúng ta chiến đấu để giữ đất, giành dân. Từ năm 1972, nhất là từ sau ngày hiệp định Paris được ký kết, quân ta có đủ khả năng đánh bại những cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Lực lượng ta phát triển rộng khắp. Với thế bố trí chiến lược mới trên toàn miền, cho phép lực lượng vũ trang ta ở đâu đánh đó. Bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiến công địch khắp nơi. Địch căng ra lo đối phó trên phạm vi toàn miền, chúng vấp phải khó khăn muôn thuở là tập trung được chỗ này thì hở chỗ khác, tập trung trên tuyến tiếp xúc với ta thì các vùng ven, nông thôn và vùng rừng núi bị bỏ trống. Vì vậy ở những nơi ta có sơ hở, mất cảnh giác, chúng cho quân nống lấn sâu vào vùng kiểm soát của ta; những nơi ta đề phòng, triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu thì địch dùng chiêu bài hòa hợp và gặp nhau theo định kỳ giữa hai bên. Đây là một thủ đoạn vô cùng nham hiểm của địch, nhằm “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” của ta.

Navigation

[0] Message Index

[#] Next page

[*] Previous page