Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:56:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 1  (Đọc 96703 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:34:56 pm »

Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 1
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 1996
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
Trung tướng, GS HOÀNG PHƯƠNG

CHỦ BIÊN
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

TÁC GIẢ
Trung tướng, GS HOÀNG PHƯƠNG
Đại tá HOÀNG DŨNG
Đại tá PGS TRẦN BƯỞI
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH




LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trong hai năm 1990, 1991, Nhà xuất bản Sự thật đã xuất bản trọn bộ hai tập Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, nhưng đó mới chỉ là công trình bước đầu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu của các bạn đọc.

Để có một công trình nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ hơn, xứng đáng với tầm vóc của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của quân và dân ta suốt 21 năm, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã bắt tay vào tổ chức nghiên cứu, biên soạn một bộ mới về Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, gồm 9 tập.

Đây là bộ sách lớn, giá trị, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sẽ lần lượt xuất bản trọn bộ từ tập I đến tập IX.

Tập I của bộ sách mang tiêu đề Nguyên nhân chiến tranh, gồm ba chương, tập trung luận giải vì sao Mỹ xâm lược Việt Nam và vì sao chúng ta lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai đế quốc Mỹ nổi lên như một tên sen đầm quốc tế, cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh và hiếu chiến, âm mưu làm bá chủ thế giới. Lợi dụng đế quốc Pháp suy yếu và sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương, Mỹ từng bước hất cảng Pháp để độc chiếm địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu, giàu tài nguyên thiên nhiên này. Khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ thì đế quốc Mỹ đã trực tiếp nhảy vào miền Nam Việt Nam thay chân Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Lúc này thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Phong trào giải phóng dân tộc dâng cao khắp nơi trên thế giới. Các nước lớn, vì mục đính vị kỷ dân tộc hẹp hòi cũng đã có những toan tính khác nhau ở Việt Nam. Tất cả những điều đó làm cho Việt Nam trở thành tiêu điểm hội tụ những mâu thuẫn của thời đại.

Hoà bình, độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ vốn là ước vọng ngàn đời của dân tộc ta. Sau chín năm chiến đấu, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thì nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ số một của nhân dân ta.

Cuộc kháng chiến thống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ, hy sinh, nhưng hết sức hào hùng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng kéo dài 21 năm đã giành được thắng lợi trọn vẹn vào mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau hơn 40 năm nhìn lại, câu hỏi vì sao đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam? Vì sao nhân dân Việt Nam lại phải cầm súng chiến đấu? còn là vấn đề phải dày công nghiên cứu.

Viện lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng và tập thể tác giả đã hết sức cố gắng để giải đáp câu hỏi đó, nhưng chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được ý kiến phê bình để lần xuất bản sau được tốt hơn.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

   
Tháng 11-1996
   NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 02:19:51 pm »


LỜI NÓI ĐẦU

Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất thế kỷ này. Xét về quy mô lực lượng tham gia, phương tiện chiến tranh hiện đại được huy động và tính chất ác liệt theo chiều hướng ngày càng tăng suốt 21 năm, thì đây là cuộc đụng đầu lịch sử giữa đế quốc Mỹ với nhân dân Việt Nam - một cuộc đụng đầu, xét về mặt vật chất, là không cân sức. Bởi vì nước Mỹ, một trong những nước lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đi xâm lược nước Việt Nam nhỏ và nghèo, lại bị tàn phá trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chưa kịp hồi phục. Quân đội Mỹ trong vòng 200 năm kể từ khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành lập đã tiến hành và tham gia tám cuộc chiến tranh lớn, nhưng chưa lần nào bại trận. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, mới nhất (trừ vũ khí nguyên tử), sử dụng tối đa sức mạnh và tiềm lực của nước Mỹ chống Việt Nam. Ngoài ra còn có 34 nước đồng minh của Mỹ tham gia đóng góp lương thực, thuốc men, trang bị kỹ thuật và huấn luyện..., giúp Mỹ tiến hành chiến tranh, trong đó có năm nước trực tiếp đưa quân chiến đấu sang Việt Nam. Với sức mạnh “không thể tưởng nổi” của nước Mỹ, giới cầm quyền Nhà Trắng, Lầu Năm Góc tin chắc sẽ chiến thắng một cách dễ dàng. Họ muốn chứng minh cho thế giới thấy rằng Mỹ đã tham chiến thì không có một lực lượng chống đối nào mà không bị đè bẹp và bị tiêu diệt.

Lúc đầu, nhiều người cho rằng trong cuộc chiến đấu không cân sức này, nhân dân Việt Nam khó có thể đứng vững. Song, qua cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam đã làm cho cả thế giới kinh ngạc.

Chủ nghĩa thực dân mới cùng với viện trợ Mỹ không lừa dối được dân tộc Việt Nam đã từng đấu tranh không khoan nhượng chống sự xâm lược và áp bức, bóc lột của ngoại bang suốt nhiều thế kỷ và đã làm nên những chiến công lừng lẫy như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa và Điện Biên lịch sử. Sự lừa mị của đế quốc Mỹ không che đậy được bản chất xâm lược và hiếu chiến của họ trước con mắt tinh tường, ý thức cảnh giác, đặc biệt là sự giác ngộ chính trị của một dân tộc đã được tổ chức tốt như dân tộc Việt Nam. Ỷ vào tiềm lực khổng lồ về mọi mặt, lại là “siêu cường” đứng đầu phe đế quốc, sau khi không lừa bịp được người dân Việt Nam bằng viện trợ, bằng “độc lập”, “tự do” giả hiệu, đế quốc Mỹ liền sử dụng vũ lực, dùng cố vấn, đôla, súng đạn để điều hành, chỉ huy chính quyền và quân đội tay sai tiến hành “chiến lược chiến tranh đặc biệt”, đánh phá dã man những người yêu nước miền Nam, dồn họ vào những “ấp chiến lược” để khống chế, kìm kẹp. Không cam chịu, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết chống lại. Sau hơn bốn năm kiên cường chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc “chiến tranh đặc biệt”, làm cho tình hình quân sự, chính trị xã hội ở miền Nam Việt Nam diễn ra ngoài dự kiến và ý muốn chủ quan của Mỹ. Ngụy quân, ngụy quyền do Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng để tiến hành kiểu chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới, đứng trước nguy cơ tan rã, sụp đổ. Trong khi đó, lực lượng cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh trên nên tảng chính trị vững chắc. Cách mạng Việt Nam ở miền Nam đã nắm quyền chủ động chiến lược, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn. Bị thất bại trong việc áp đặt chủ nghĩa thực dân mới và “chiến tranh đặc biệt”, nhưng do quá tin vào sức mạnh vật chất to lớn của mình, do quan điểm xem xét chủ quan của chủ nghĩa đế quốc, những người cầm quyền nước Mỹ không thể nào hiểu đúng được ý chí và sức mạnh chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Phái “diều hâu” ở Mỹ cho thất bại đó là do quân đội Sài Gòn non yếu và Mỹ “chưa ra tay”. Với bản chất chống cộng điên cuồng, với vị thế của một “siêu cường” muốn làm bá chủ thế giới, chúng không chịu dừng lại, xem xét nghiêm túc, khách quan để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh, mà tiếp tục lao sâu vào cuộc chiến tranh bằng việc đưa ồ ạt quân chiến đấu Mỹ và quân một số nước đồng minh Mỹ vào miền Nam Việt Nam, tiến hành “chiến lược chiến tranh cục bộ”, đồng thời dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Nhà trắng và Lầu Năm Góc tin tưởng rằng với chủ trương và biện pháp cứng rắn này, nhất định Mỹ sẽ đánh bại đối phương trong thời gian ngắn nhất.

Cả thế giới hồi hộp theo dõi diễn biến chiến sự và chiều hướng phát triển cuộc chiến tranh. Họ ái ngại, rồi lo lắng cho Việt Nam trước cuộc xâm lược tàn bạo của Mỹ. Các nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nước dân chủ, nhiều tổ chức quần chúng tiến bộ ở châu Á, châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ lên tiếng phản đối đế quốc Mỹ, ủng hộ nhân dân Việt Nam.

Khi đưa quân viễn chinh trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược, những người cầm quyền nước Mỹ lạc quan tin tưởng bao nhiêu thì qua cuộc đọ sức mùa khô lần thứ nhất, họ cảm thấy nước Mỹ đang đi trong một “đường hầm không có lối ra” và một tâm lý bi quan đã bộc lộ trong giới dân sự và quân sự. Tuy vậy, chính quyền Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu giành thắng lợi bằng quân sự, ngoan cố lao sâu vào cuộc chiến tranh. Tổng thống Giônxơn quyết định tăng quân chiến đấu Mỹ và phương tiện kỹ thuật chiến tranh hiện đại, tiếp tục leo thang và mở rộng chiến tranh với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn.

Nhân dân Việt Nam với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã đoàn kết thành một khối thống nhất, kiên quyết kháng chiến. Bằng việc kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược và biện pháp chiến lược của Mỹ, tiến đến mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, làm rung chuyển nước Mỹ, làm hiện lên trước mắt chính quyền Giônxơn và cả nhân dân Mỹ hình ảnh quân đội Mỹ đang bị đánh bại trong cuộc chiến tranh. Kinh ngạc vì cuộc tiến công Tết Mậu Thân, bị bối rối vì trận Khe Sanh và bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, tập đoàn hiếu chiến trong bộ máy cầm quyền nước Mỹ dao động ý chí. Xã hội Mỹ khủng hoảng sâu sắc, nội bộ chia rẽ. Nhiều tầng lớp nhân dân Mỹ phản đối kéo dài chiến tranh, đòi rút quân Mỹ về nước. Cả thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ leo thang chiến tranh. Đến lúc này phía Mỹ mới chấp nhận thương lượng với Việt Nam, chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Chiến lược “chiến tranh cục bộ” bị phá sản. Tổng thống Mỹ Níchxơn muốn rút quân Mỹ nhưng vẫn duy trì được thế mạnh và chỗ dựa là ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn bằng việc thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Mục tiêu của Mỹ là bình định miền Nam, đẩy lùi chủ lực Quân giải phóng, triệt phá các căn cứ du kích, ngăn chặn đường tiếp tế và phá hủy căn cứ hậu cần, phong toả và đánh phá tê liệt miền Bắc Việt Nam. Đi đôi với tăng cường, mở rộng chiến tranh, đế quốc Mỹ dùng chính sách ngoại giao xảo quyệt, đánh vào sau lưng Việt Nam và tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh Việt Nam từ các nước lớn Liên Xô, Trung Quốc, trong khi những điều kiện hợp tình, hợp lý để đem lại hoà bình do phía Mặt trận Dân tộc giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đưa ra tại cuộc hoà đàm Pari đều bị Mỹ bác bỏ. Để lừa bịp và xoa dịu sự công phẫn của nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới và đe doạ Việt Nam, Nhà trắng và Lầu Năm Góc đưa ra những đợt ngừng ném bom bộ phận miền Bắc và đòi nhân dân ta phải chấp nhận những điều kiện “hoà bình” của Mỹ. Sau này, Mắc Namara, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, cho đó là những “cơ hội hoà bình” bị bỏ lỡ. Sự thật sau những đợt ngừng ném bom, không quân Mỹ đánh phá trở lại ác liệt hơn. Thực chất Mỹ quyết giành thắng lợi trên thế mạnh, áp đặt ý chí của chúng cho nhân dân Việt Nam. Song, sự xảo quyệt và ngoan cố đó không lừa được ai, càng làm cho tinh thần kháng chiến của nhân dân ta thêm kiên quyết. Cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn ác liệt, nhưng đế quốc Mỹ không đảo ngược được chiều hướng đang thua của chúng. Neil Shechan - nhà báo Mỹ, một trong những người có công phanh phui Tài liệu mật Lầu Năm Góc ra trước công luận đã nhận định đúng đắn rằng: “Sau những năm dài tìm cách khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật của mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng có thể bị những người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương. Nếu đúng như vậy, thì thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc” 1.

Thất bại đã rõ, nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố sử dụng sức mạnh quân sự để ép ta trên bàn đàm phán, đến khi nhân dân ta tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972 giành thắng lợi rất to lớn và đánh bại chiến dịch tập kích chiến lược bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng, đập tan huyền thoại về sức mạnh không quân “tượng trưng cho đòn chủ yếu trong chiến lược của Mỹ”, thì Hoa Kỳ mới chịu ký Hiệp định Pari, rút quân Mỹ về nước.
_______________________________________
1. Trích trong Lời tựa cuốn sách Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương của Neil Shechan, do nhóm nghiên cứu về chiến tranh không quân Trường đại học Cornell biên soạn năm 1972. Lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 02:21:08 pm »


Mùa xuân 1973, Mỹ cút, mùa Xuân 1975, ngụy nhào: Nước Việt Nam được độc lập, thống nhất. Điều đó khẳng định: Trong thời đại ngày nay một dân tộc dù nhỏ, nhưng có chính nghĩa, đoàn kết thành một khối thống nhất, kiên quyết chiến đấu dưới sự lãnh đạo của một Đảng macxit Lêninnít có đường lối và chiến lược đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với ý nguyện của toàn dân, được thế giới đồng tình ủng hộ thì dân tộc đó có thể đánh bại bất cứ kẻ thù xâm lược nào dù lớn mạnh hơn mình gấp bội.

Qua cuộc đấu trí, đấu lực giữa hai bên Việt - Mỹ, có thể thấy do coi thường đối phương, lại không hiểu được truyền thống ý chí của một dân tộc quyết giành độc lập, thống nhất Tổ quốc, không hiểu được quy luật của cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, nên Mỹ không thể hoạch định được chiến lược đúng, luôn luôn bị động, không làm chủ được tình thế và làm chủ được mình, gặp hết thất bại này đến thất bại khác dù đã dày công rút kinh nghiệm, huy động trí tuệ của nhiều nhà chiến lược, nhà khoa học, nhân viên nghiên cứu trong thời gian dài trong lịch sử chiến tranh của Mỹ.

Về phía Việt Nam, những vấn đề cơ bản về đường lối, phương pháp cách mạng, chiến lược chiến tranh nhân dân, về tổ chức hậu phương, tổ chức lực lượng v.v… được Đảng Lao động Việt Nam vạch ra trên cơ sở nghiên cứu điều kiện khách quan, chủ quan một cách khoa học và phổ biến cho toàn dân thực hiện. Qua thực tiễn chiến tranh, đường lối, chủ trương của Đảng được bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh. Đó là sự kết hợp giữa trí tuệ của Ban Chấp hành Trung ương, Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị với trí tuệ của các cấp chỉ huy chiến trường, mặt trận, trí tuệ của các đảng bộ địa phương, của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang. Song những phát kiến chiến lược lại xuất phát từ cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của các thế hệ đi trước, cùng những kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp là cơ sở rất quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển đường lối, chiến lược, sách lược là nghệ thuật chỉ đạo Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sự phát triển đó được thể hiện trong việc đánh giá tình hình quốc tế, trong nước, đánh giá đúng địch, đúng ta, giữ vững độc lập tự chủ khi xác định nhiệm vụ của hai miền Nam-Bắc và nhiệm vụ chung của cả nước mỗi khi đối phương tung ra những thủ đoạn mới; tổ chức cả đánh giặc trên cả ba vùng chiến lược ở tiền tuyến lớn và chống chiến tranh phá hoại, bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện kịp thời, đầy đủ cho miền Nam đánh thắng và làm nghĩa vụ quốc tế.

Điều đó còn thể hiện ở trình độ nghệ thuật quân sự được nâng cao trên các lĩnh vực chiến lược, chiến dịch, chiến thuật. Do đó, ta đã biết mở đầu cuộc kháng chiến đúng lúc, biết tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, nắm thời cơ để tổ chức tác chiến chiến lược, mở các cuộc tổng tiến công, tạo ra các bước ngoặt chiến tranh có lợi cho ta, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, kết thúc chiến tranh vào lúc có lợi nhất cho cách mạng Việt Nam và thế giới.

Cuộc kháng chiến vĩ đại của Việt Nam đã được sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước yêu chuộng hoà bình, công lý và nhân dân tiến bộ thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ. Nhờ đó, Việt Nam đã chiến thắng trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao ở cả chiến trường Việt Nam và trên thế giới, ở tại nước Mỹ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã kết thúc trọn vẹn vào Mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã giành được độc lập và thống nhất đang ra sức xây dựng cuộc sống mới công bằng, văn minh và hiện đại. Cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một đề tài lịch sử lớn, được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nhiều nhà chính trị trong nước và trên thế giới quan tâm tìm hiểu. Cho đến nay, đã có hàng nghìn cuốn sách và tài liệu nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam trên nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề khác nhau. Do lượng thông tin thu thập từ hai phía còn hạn chế, do quan điểm xem xét và động cơ khác nhau, nên các tác giả nước ngoài giải thích, đánh giá về cuộc chiến tranh cũng khác nhau, có nhiều điều sát thực, nhưng cũng không ít ý kiến trái ngược, nhất là về nguyên nhân chiến tranh, sự đấu trí, đấu lực của hai bên tham chiến suốt 21 năm, mà kết cục phần thắng thuộc về nhân dân Việt Nam, về tác động của nó đối với thế giới đương đại và những bài học kinh nghiệm, v.v…

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam thuộc Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã biên soạn, Nhà xuất bản Sự thật đã xuất bản lần đầu vào năm 1990, 1991 bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 1954 – 1975 gồm hai tập. Đó là hai cuốn lược sử nhằm phục vụ kịp thời việc giáo dục truyền thống trong lực lượng vũ trang, nghiên cứu, giảng dạy ở các học viện, trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau 20 năm chiến tranh kết thúc, với độ lùi thời gian đó, đã có thêm nhiều tư liệu từ hai phía, nhất là công trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II của Viện Lịch sử Đảng, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học do Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị biên soạn, được Bộ Chính trị cho ý kiến kết luận, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1995 và qua khảo sát thực tế các chiến trường, ý kiến đóng góp của đông đảo bạn đọc, lần này Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 đầy đủ hơn.

Với tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, khoa học và ý thức trách nhiệm đối với lịch sử, tập thể tác giả sẽ tái hiện toàn bộ cuộc kháng chiến tương đối tỷ mỷ, trong đó cố gắng làm nổi bật một số sự kiện trọng yếu, đồng thời chú trọng phân tích làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân cuộc chiến tranh, sự đấu trí, đấu lực của hai bên tham chiến và những bài học kinh nghiệm...

Việc nêu rõ và đánh giá những ưu, khuyết điểm chính, cùng những nguyên nhân về thành công, thất bại qua các giai đoạn chiến tranh nhằm cung cấp những thông tin chính xác để giúp bạn đọc hiểu đúng cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta cũng được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong lần biên soạn này.

Bộ Lịch sử được biên soạn thành chín tập:

Tập I: Nguyên nhân chiến tranh

Tập II: Chuyển chiến lược

Tập III: Đánh thắng chiến tranh đặc biệt

Tập IV: Cuộc đụng đầu lịch sử

Tập V: Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968

Tập VI: Thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương

Tập VII: Thắng lợi quyết định

Tập VII-I: Toàn thắng.

Tập IX: Nguyên nhân thắng lợi, bài học lịch sử

Quá trình nghiên cứu biên soạn bộ lịch sử này, chúng tôi được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng, đóng góp ý kiến, cung cấp tư liệu của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội trong các thời kỳ chiến tranh, các cán bộ cao cấp, trung cấp, các phòng khoa học công nghệ và môi trường các quân khu, quân đoàn, tỉnh đội và nhiều nhà khoa học, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, tỉ mỉ của Ban lãnh đạo Viện Lịch sử quân sự Việt Nam cũng như cá nhân đồng chí Viện trưởng. Chúng tôi chân thành cảm ơn sự đóng góp nhiệt tình và đầy trách nhiệm này.

Mặc dù tập thể tác giả rất cố gắng trong việc sưu tầm, chỉnh lý tư liệu và thể hiện, song lịch sử Cuộc kháng chiến thống Mỹ, cứu nước diễn ra 21 năm vô cùng hào hùng, phản ánh được nó thật đầy đủ quả không phải dễ dàng, vả lại trình độ nhận thức của tập thể tác giả còn nhiều hạn chế, nên bộ sử chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót và những chỗ bất cập.

Rất mong bạn đọc phê bình, đóng góp ý kiến để giúp cho việc nghiên cứu ngày càng đạt chất lượng cao.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:32:22 pm »


Chương I
TÌNH HÌNH VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
SAU THẮNG LỢI ĐIỆN BIÊN PHỦ


I. VIỆT NAM TỪ SAU NGÀY 20-7-1954

Cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao thắng là chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp mới. Đất nước tạm thời chia thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam còn dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước tiếp tục bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau trong điều kiện có pháp lý của Hiệp định Giơnevơ, và thế giới chia thành hai phe đối kháng, nhưng lại “cùng tồn tại hoà bình” trong cuộc chiến tranh lạnh căng thẳng và gay gắt.

Ở miền Bắc, sau khi quân đội Pháp rút đi, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bảo đảm đời sống, củng cố, xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến lược của cả nước, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất - hậu quả của gần một thế kỷ thuộc địa và hơn chín năm chiến tranh.

90% dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề nông, nhưng nền sản xuất nông nghiệp manh mún, nghèo nàn, kỹ thuật canh tác lạc hậu, đời sống người nông dân còn thiếu thốn mọi bề.

Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp vào năm 1954 với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và các tài liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị Pháp chuyển vào Nam. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công, nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt xuống còn 1,5%. khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp bị chèn ép, bị sa sút không có nguyên liệu sản xuất. Nhiều ngành, nghề thủ công truyền thống bị mai một hoặc mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp.

Hoà bình lập lại nhưng tình hình an ninh ở miền Bắc vẫn còn phức tạp do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn phản động phá hoại. Trước, trong và sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật. Địch gài lại hàng ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản động, cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng Lao động, Chính phủ Việt Nam hòng lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân. Ở miền biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động Pháp, Mỹ, Tưởng tiếp tay, hoạt động phá hoại. Tại nhiều vùng khác, bọn ngụy quân, ngụy quyền cũ vẫn lén lút hoạt động chống phá chính quyền cách mạng.

Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn, vì kẻ thù kích động.

Khắc phục hậu quả chiến tranh ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn. Để hoàn thành sự nghiệp đó, điều cốt yếu là phải đoàn kết toàn dân, tăng cường đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiện toàn bộ máy lãnh đạo và chính quyền các cấp. Vùng mới giải phóng, chính quyền cơ sở mới hình thành, chưa được củng cố kiện toàn. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế.

Miền Nam tạm thời thuộc quyền kiểm soát của đối phương. Từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách mạng phải chuyển sang phương thức vừa hợp pháp và không hợp pháp, vừa công khai lại vừa bí mật. Đó là một đảo lộn lớn, một tình thế nguy hiểm đối với cách mạng ở miền Nam. Sự thay đổi đó, tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn.

Cách mạng nước ta chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, do một Đảng duy nhất lãnh đạo. Do vậy, dù còn nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là căn bản: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, Mặt trận rộng rãi. Miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi. Nhân dân ta có một đảng vững mạnh, có kinh nghiệm lãnh đạo, với đội ngũ đảng viên, đoàn viên hơn một triệu người, lại được nhân dân tiến bộ thế giới đồng tình ủng hộ. Thuận lợi đó sẽ được nhân lên thành sức mạnh to lớn để chiến thắng. Miền Nam Việt Nam lúc này trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mỹ, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa chúng với nhau. Pháp vẫn muốn ở lại, Mỹ quyết thay thế Pháp. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính nước Pháp, họ đã phải rút dần ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền lực cho Mỹ. Cuộc chuyển giao này không êm thấm. Vì từ lâu, Mỹ đã có âm mưu gạt dần Pháp. Giai đoạn cuối cuộc chiến tranh chống Pháp đã hình thành trên thực tế một tập đoàn thân Mỹ trong quân đội và trong chính quyền Bảo Đại. Đứng đầu tập đoàn này là Ngô Đình Diệm do Mỹ đưa về, buộc Pháp và Bảo Đại phải để ông ta thay Bửu Lộc làm thủ tướng kiêm tổng trưởng nội vụ và quốc phòng. Trong nội các Ngô Đình Diệm, các thành viên thân Mỹ hoặc có quan hệ chặt chẽ với Diệm, chiếm đa số. Dựa vào đó ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiệp định này, can thiệp sâu hơn nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưa cơ bản, lâu dài đó, trước mắt, Mỹ tập trung nỗ lực giúp cho Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam.

Như thế, miền Nam Việt Nam từ sau khi ký kết Hiệp nghị Giơnevơ, tồn tại ba lực lượng chính trị, quân sự chủ yếu là: Pháp (và các thế lực thân Pháp), Mỹ (và các thế lực thân Mỹ) và các lực lượng cách mạng miền Nam. Pháp và các thế lực thân Pháp nhanh chóng bị gạt bỏ, còn lại hai lực lượng đối lập nhau gay gắt là: Mỹ - Diệm và lực lượng cách mạng miền Nam.

Chính sách can thiệp của Mỹ làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, giữa bọn thân Mỹ và bọn thân Pháp có lúc trở nên gay gắt. Nhiều cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội Diệm với một bộ phận thân Pháp trong các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên... diễn ra quyết liệt, làm cho đời sống nhân dân miền Nam ngày càng thêm cơ cực.

Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ chót mũi Cà Mau đến bờ nam sông Bến Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp đầy căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, trong xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc Mỹ - Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân ta.

Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách tưởng chừng khó vượt qua.

Tình hình trên đây cho thấy “đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương” 1 và “đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương” 2.

Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đến đây chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ, hoà bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Trong cuộc đấu tranh này, cách mạng Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược, nó đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên. Trước tình thế mới của đất nước và thế giới, để hoàn thành nhiệm vụ đó, sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng phải tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt và vững vàng. Toàn quân, toàn dân và toàn thể cán bộ từ Bắc đến Nam, phải đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng và Hồ Chủ Tịch, chính quyền cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất, tư tưởng và hành động phải nhất trí, kiên quyết, khôn khéo.
__________________________________
1, 2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng. tháng 7-1954.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:39:02 pm »


II. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam ngày 7-5-1954 là một trong những sự kiện nổi bật của phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức nửa đầu thế kỷ XX, làm “chẤn Động địa cầu”.

Một nước thuộc địa nửa phong kiến vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị áp bức, bóc lột đến kiệt quệ suốt gần một thế kỷ, đã đánh bại hoàn toàn đội quân xâm lược nhà nghề của một đế quốc lớn. Bị tổn thất nặng về người và phương tiện chiến tranh1, Pháp buộc phải ngồi vào bàn thương lượng. Tại đây cuộc đấu tranh cũng diễn ra quyết liệt. Nhóm thực dân hiếu chiến trong giới cầm quyền đương thời ở nước Pháp và bọn can thiệp Mỹ tuy đã thất bại trên chiến trường vẫn tìm mọi cách phá hoại cuộc thương lượng, hy vọng sẽ tìm một giải pháp khác để có thể ở lại Đông Dương. Song mọi mưu mô, thủ đoạn của họ đã không thực hiện được.

Chiến thắng của nhân dân Việt Nam cả ở trên chiến trường và trong Hội nghị đã đuổi đội quân viễn chinh tinh nhuệ của Pháp về nước. Đã làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ Đông Dương, có tác động to lớn đến phong trào cách mạng thế giới nói chung và phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh nói riêng. Giữa lúc nhân loại bị áp bức đang mò mẫm trên con đường giành độc lập dân tộc, chiến thắng của Việt Nam làm tăng gấp bội nhiệt tình đấu tranh, lòng tự tin của những người cách mạng và các dân tộc bị áp bức trên khắp thế giới; đồng thời, làm cho những tập đoàn hiếu chiến trong giới cầm quyền ở các nước đế quốc phải lo đối phó với phong trào cách mạng đang dâng lên sau sự kiện Điện Biên Phủ. Cuộc đấu tranh giữa các lực lượng cách mạng và yêu chuộng hoà bình với các lực lượng hiếu chiến, chống cách mạng vì thế diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, quyết liệt với tính chất tiến công mạnh mẽ, có hiệu quả.

Phong trào giải phóng dân tộc.

Trước hết, ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, những bài học rút ra trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp với thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ đã được các lực lượng cách mạng chú trọng nghiên cứu và vận dụng trong cuộc đấu tranh của mình.

Đối với nhân dân các nước châu Phi, chiến thắng của Việt Nam có sức động viên, cổ vũ mạnh mẽ, củng cố niềm tin của họ vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giành lại độc lập dân tộc. Bài học về đoàn kết đứng dậy đấu tranh theo một đường lối đúng đắn với quyết tâm chiến đấu cho độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam đã góp phần làm chuyển biến phong trào giải phóng dân tộc sang một giai đoạn phát triển mới sôi nổi, tích cực và liên tục. Trước đây, do âm mưu chia rẽ của đế quốc và tay sai của chúng, do thiếu kinh nghiệm, phong trào đấu tranh ở nhiều nước châu Phi thường thiếu đoàn kết giữa các lực lượng; mặt trận dân tộc thống nhất chưa hình thành; tình trạng bè phái, chia rẽ còn nặng; có nơi đảng cộng sản còn bị cô lập. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gợi lên cho nhân dân, trước hết là các lực lượng cách mạng ở các nước châu Phi những suy nghĩ mới về đường lối và phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 8-1954, Đảng Cộng sản Marốc ra tuyên bố đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt các hành động đàn áp, khủng bố những người yêu nước, phải thả tù chính trị. Bản tuyên bố đòi Pháp phải đảm bảo các quyền tự do dân chủ và tổ chức ngay cuộc đàm phán với đại biểu của nhân dân cách mạng, trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc và chủ quyền của Marốc. Bản tuyên bố đó được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân thuộc các khuynh hướng chính trị trong nước. Tháng 10-1954, một cuộc biểu dương lực lượng được tổ chức trong cả nước, tiếp đó là một cuộc tổng bãi công kéo dài ba ngày liền. Theo kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, nhân dân Marốc đã cầm vũ khí, kiên trì cuộc đấu tranh để giành độc lập dân tộc.

Ở các nước chảu Phi khác như Tuynidi, Angiêri, Mali, Camơrun, Mađagátxca, Cônggô, Urunđi v.v… phong trào đấu tranh giành độc lập phát triển với khí thế sôi nổi. Điển hình là phong trào giải phóng Angiêri. Trước thất bại quân sự của Pháp ở Điện Biên Phủ và được khuyến khích bởi những kinh nghiệm Việt Nam, cuộc đấu tranh của nhân dân Angiêri được tổ chức lại có quy củ hơn. Mặt trận giải phóng dân tộc Angiêri ra đời được sự hưởng ứng của phần lớn các đảng phái và tổ chức yêu nước, đại diện cho các giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, các giới trí thức và các tầng lớp xã hội khác. Đây là một hiện tượng quan trọng nảy sinh sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam. Mặt trận là một tổ chức dân chủ rộng rãi, thường xuyên giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân lao động, nhất là nông dân. Vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của Mặt trận ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Khối đoàn kết toàn dân chung quanh Mặt trận hướng vào mục đích giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của thực dân Pháp được củng cố ngày càng vững chắc. Đó là nền tảng để xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng.

Tháng 7-1955, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Angiêri họp và quyết định thành lập các đội vũ trang: các đội “chiến sĩ giải phóng”. Hội nghị cũng đặt ra cho các đảng viên nhiệm vụ tham gia các lực lượng du kích của Mặt trận giải phóng. Do tình hình phát triển thuận lợi, do yêu cầu thống nhất hành động và thống nhất chỉ huy tháng 7-1956, Đảng Cộng sản và Mặt trận giải phóng đã ký kết hiệp định thống nhất các đội “chiến sĩ giải phóng” của Đảng vào cơ cấu Quân giải phóng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Mặt trận. Mặt trận giải phóng thường xuyên quan tâm củng cố khối đoàn kết thống nhất trong phong trào chống thực dân, giành độc lập dân tộc. Tháng 2-1956, Mặt trận quyết định thành lập Tổng liên đoàn lao động Angiêri. Tháng 8-1956, ban lãnh đạo Mặt trận họp đề ra cương lĩnh đấu tranh nhằm thủ tiêu chế độ thực dân Pháp, thành lập nhà nước Cộng hoà Angiêri, tiến hành cải cách ruộng đất. Cương lĩnh được công nhân và nông dân - lực lượng chủ yếu của cuộc đấu tranh hưởng ứng nhiệt liệt và tích cực tham gia thực hiện.

Từ khi Mặt trận giải phóng dân tộc Angiêri ra đời, có cương lĩnh đúng đắn được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, cuộc kháng chiến cứu nước phát triển và giành được thắng lợi từng bước vững chắc. Mặc dù nhiều cuộc vùng dậy của nhân dân đã bị đàn áp, song phong trào đấu tranh không hề bị dập tắt, bởi “Người Angiêri bước lên con đường mà những người anh em Việt Nam đã vạch ra” 2. Cuộc chiến đấu của nhân dân Angiêri do Mặt trận giải phóng dân tộc lãnh đạo bắt đầu nổ ra vào ngày 1-11-1954 được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.

Mặc dầu thực dân Pháp vẫn ngoan cố kéo dài chiến tranh, song cuối cùng phải ngồi vào bàn thương lượng và ký kết Hiệp ước đình chiến Êviăng (Pháp) ngày 18-3-1962. Nước Pháp thừa nhận quyền độc lập tự chủ của Angiêri. Ngày 1-7-1962, nước Cộng hoà Angiêri ra đời. Nhân dân Angiêri đã xoá được mối nhục mất nước kéo dài 124 năm dưới ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân Pháp.
_______________________________________
1. Tại Điện Biên Phủ, 16.200 binh sĩ thuộc 17 tiểu đoàn bộ binh và lính nhảy dù, 3 tiểu đoàn trọng pháo và súng cối nặng, 10 đại đội bổ sung người Thái và các phân đội trực thuộc khác bị tiêu diệt và bắt làm tù binh cùng với toàn bộ vũ khí và kho tàng; 62 máy bay các loại bị bắn rơi.
    Trong cả cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương mà chiến trường Việt Nam là chủ yếu, kéo dài gần 9 năm. Pháp mất khoảng 100.000 người chết, tiêu phí gần 66 tỷ Phrăng mới, không kể viện trợ của Mỹ. Nước Pháp còn phải chi phí các khoản bảo hiểm xã hội cho thương, phế binh và giai quyết hậu quả chiến tranh kéo dài khoảng 20 năm sau khi đình chiến.

2. Lời phát biểu của đồng chí Lácbi Buhali. Bí thư Đảng Cộng sản Angiêri trong dịp sang thăm Việt Nam năm 1961 - Báo Nhân dân ngày 7-5-1961.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:40:49 pm »


Cùng với Angiêri và Marốc, một loạt các thuộc địa của Pháp như Tuynidi, Ghinê, Mali, Xuđăng, Mađagatxca, Camơrun cũng vùng dậy đấu tranh. Một lúc phải đối phó với phong trào chống thực dân ở hầu hết các thuộc địa của mình, sau khi bị thất bại thảm hại ở Việt Nam, trong tình hình xã hội Pháp bị khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt, chính phủ đương thời ở Pháp dù không muốn cũng phải lùi bước trước cao trào giải phóng dân tộc. Chính vì thế, phần lớn các nước trong số 24 quốc gia châu Phi trong thời gian này được trả lại quyền độc lập dân tộc ở mức độ khác nhau.

Châu Á - đối tượng xâm lược của các đế quốc châu Âu và Bắc Mỹ từ hàng trăm năm nay, cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc ở đây được tiếp thêm sức mạnh rõ rệt. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam chứng minh rằng lực lượng đi xâm lược của bọn thực dân tuy hùng hổ và được trang bị hiện đại, vẫn có thể bị các lực lượng cách mạng đánh bại. “Việc giải phóng Điện Biên Phủ chứng minh nhân dân châu Á có đủ khả năng kết thúc lịch sử của bọn thực dân âm mưu dùng lực lượng vũ trang để thực hiện dục vọng tham lam của chúng” 1. Sự đánh giá đó thể hiện niềm tin của các dân tộc châu Á vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, nó cổ vũ và làm tăng thêm sức mạnh, nghị lực cho các phong trào cách mạng kiên quyết hành động, dẫn tới sự sụp đổ toàn cầu của chủ nghĩa thực dân cũ.

Chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, chủ nghĩa thực dân mới, mà điển hình là chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, liền thay thế. Mỹ nhòm ngó vào thuộc địa cũ của các nước đế quốc.

Ở Đông Dương, sự đoàn kết gắn bó trong nội bộ nhân dân Việt Nam, cũng như sự đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia càng thêm chặt chẽ, để chuẩn bị đối phó với những thủ đoạn xâm lược kiểu thực dân mới mà đế quốc Mỹ đang triển khai tích cực. Những nhiệm vụ xây dựng vùng mới được giải phóng, củng cố lực lượng cách mạng được thực hiện với khí thế sôi nổi.

Trong khi đó, Mỹ lập khối xâm lược Đông Nam Á (SEATO), tuyên bố đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia dưới sự “bảo hộ” của khối này do Mỹ cầm đầu. Lúc này quân đội Pháp cùng với lực lượng ngụy Lào lợi dụng ngừng bắn đã tràn ra nhiều nơi, gây khó khăn cho việc tập kết của bộ đội Pathét Lào và cướp bóc, khủng bố những người kháng chiến. Ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phongxalỳ, vùng tập kết của Pathét Lào, từ sau khi ngừng bắn đến tháng 1-1955, các toán vũ trang đối phương đã tấn công nhiều lần, làm nhiều người chết và bị thương, chúng đốt nhà cướp của, bắn giết trâu bò, lợn gà, bắt đi hàng trăm người. Những hành động phá hoại việc thi hành Hiệp định Gơnevơ diễn ra liên tục theo sự chỉ huy của đế quốc Mỹ như lấn chiếm vùng tập kết, thay đổi tay sai, lật đổ chính phủ liên hiệp, bắt lãnh tụ của Pathét Lào v.v… Tình hình Lào rất căng thẳng. Nhưng địch đã thất bại, nhờ có sự đoàn kết và hành động mưu trí, dũng cảm của quân và dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào.

Ở Campuchia, sau Hiệp định Giơnevơ, Vương quốc Campuchia vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Tháng 3-1955, Quốc vương Xihanúc tuyên bố thoái vị và trở thành Quốc trưởng. Tháng 9 cùng năm đó, Quốc hội Campuchia tuyên bố rút ra khỏi khối liên hiệp Pháp để xây dựng “quốc gia độc lập, có chủ quyền”. Tuy nhiên, Chính phủ Campuchia đã đồng tình với việc Mỹ thành lập khối quân sự SEATO. Tháng 5-1955, Chính phủ Campuchia ký kết với Mỹ hiệp ước viện trợ quân sự và tháng 9 cùng năm ký hiệp ước viện trợ kinh tế. Việc thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương bị vi phạm nghiêm trọng. Những người kháng chiến và nhiều chiến sĩ Khơme Ítxarắc, quân tình nguyện Việt Nam trong khi tập kết và rút quân bị quân quốc gia Campuchia phục kích và bắn giết. Với mưu đồ nhanh chóng nhảy vào xứ Đông Dương để thiết lập chủ nghĩa thực dân kiểu mới, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, Mỹ tích cực chuẩn bị cho việc lập “khối Cửu Long” gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, nhằm biến ba nước dọc sông Mê Công thành căn cứ quân sự, dùng ba nước này để chống phong trào cách mạng ở Đông Dương. Tình hình trên gây nên sự phản ứng trong nhân dân Campuchia. Sự phụ thuộc vào Mỹ ngày càng tăng lên rõ rệt làm cho chính phủ Xihanúc phải xét lại chính sách của mình và đã chủ trương đi theo đường lối hoà bình, trung lập. Tháng 2-1956, Xihanúc tuyên bố Campuchia không gia nhập khối SEATO. Khắp nơi ở châu Á, một lục địa đất rộng, người đông, nhưng lâu nay vẫn bị các đế quốc phương Tây chèn ép và khinh rẻ, đều có phong trào ủng hộ Việt Nam, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức.

Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ lan sang cả Mỹ Latinh, một “lục địa nửa thuộc địa” ở Tây bán cầu, “cái sân sau của Mỹ” như bọn thực dân thường gọi. Ở lục địa này, cứ mỗi phút có bốn người chết đói hoặc chết bệnh, đồng thời cứ mỗi phút bọn thực dân lại hốt được khoảng bốn nghìn đôla để gửi về Mỹ2. Tiếng súng chiến thắng ở Điện Biên Phủ đã làm sôi sục thêm những tình cảm cách mạng và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Cuba cũng như nhân dân Mỹ Latinh. Những kinh nghiệm kháng chiến của Việt Nam được các lực lượng cách mạng ở Mỹ Latinh coi là “ánh đèn pha chiếu rọi” cho hàng triệu người đang đấu tranh chống áp bức bóc lột trên thế giới. Nhân dân Cuba dưới sự lãnh đạo của Phiđen Cátxtơrô và đội tiên phong, mở cửa đột phá đầu tiên vào hệ thống nửa thuộc địa của đế quốc Hoa Kỳ ở Mỹ Latinh.

Cách mạng Cuba thành công trên một đất nước nằm ngay ở cửa ngõ nước Mỹ đã xua tan ấn tượng khủng khiếp về sức mạnh của bọn tư bản thống trị, củng cố lòng tin vào sức mạnh của quần chúng cách mạng, làm cho nhân dân các nước Mỹ Latinh càng giác ngộ về nhiệm vụ đấu tranh giành quyền sống và độc lập tự do cho dân tộc mình.

Nhìn chung, bằng ý chí chiến đấu kiên cường, lòng dũng cảm, trí thông minh được kết tinh trong đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng oanh liệt ở Điện Biên Phủ, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Kết quả đấu tranh thắng lợi vẻ vang của một dân tộc thuộc địa trước một tên thực dân cáo già như Pháp có sức thuyết phục mạnh mẽ, tăng thêm quyết tâm, niềm tin và kinh nghiệm cho các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và chủ quyền dân tộc. Tình hình châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh vào giữa thập kỷ 50 của thế kỷ này đã không còn giống như trước kia nữa. Từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ đến cuối những năm 60, có khoảng 40 nước giành được độc lập, trong số này có 32 nước là thuộc địa của Pháp. Các chế độ thực dân bị lên án. Các phong trào kháng chiến lớn mạnh, lan rộng ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Các phong trào đó không những giành được những thắng lợi về quân sự ở nhiều nơi mà còn góp phần rất quan trọng vào việc làm biến đổi tình hình chính trị thế giới. Do nhiều nước đã giành được độc lập cho nên vào giữa những năm 50, Liên hiệp quốc đã có tới hơn 100 nước hội viên với nhiều thành viên mới của châu Á và châu Phi. Trước kia chỉ có 50 nước mà đa số là các nước châu Âu và Mỹ Latinh. Chương trình nghị sự về vấn đề chính trị thế giới không còn do những nước lớn có tiềm lực mạnh về kinh tế và quân sự định đoạt và áp đặt cho Đại Hội đồng Liên hiệp quốc. Năm 1960, Liên hiệp quốc tuyên bố về quyền độc lập của các nước và nhân dân thuộc địa, kết tội chủ nghĩa thực dân bằng tuyệt đại đa số phiếu. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ liên tiếp trước những đòn tiến công của phong trào giải phóng dân tộc.
_______________________________________
1. Báo Tin tức Inđônêxia, ngày 11-5-1954
2. Theo Tuyên ngôn La Habana II, ngày 4-2-1962.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:43:29 pm »


Phong trào công nhân ở các nước tư bản

Từ sau chiến thắng của Việt Nam ở Điện Biên Phủ, cuộc đấu tranh giữa các lực lượng lao động với tư bản, giữa các lực lượng dân chủ với các lực lượng phản động ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng nổi lên ngày càng sôi nổi. Sự thất bại của chủ nghĩa thực dân trước phong trào giải phóng dân tộc, việc mất các thuộc địa, nguồn cung cấp nhiều loại tài nguyên quý giá và phong phú, cùng với nhân công rẻ mạt, đã tác động tai hại trực tiếp đến nguồn lợi nhuận của các nước đế quốc làm cho khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị ở những nước này thêm sâu sắc. Chính quyền tư sản ở đó phải tìm mọi cách cứu vãn tình thế, duy trì những vị trí của chúng ở nước ngoài và tăng cường việc bóc lột nhân dân trong nước. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, đi sâu là giai cấp công nhân ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn có nội dung phong phú và nhiều hình thức linh hoạt. Những đợt bãi công liên tiếp có hàng triệu người tham gia kéo dài hàng tháng. Nhiều cuộc xuống đường biểu dương lực lượng, làm cho bộ máy nhà nước tư sản phải đối phó lúng túng. Ở Italia, Pháp, nhiều cuộc đấu tranh để bảo vệ dân chủ, chống chế độ phản động của nền chuyên chế cá nhân cũng phát triển bằng nhiều hình thức. Ở Mỹ, Achentina, Anh, Canađa, Urugoay, Chilê, Bỉ và nhiều nước tư bản khác, công nhân đã tổ chức nhiều cuộc bãi công lớn. Đặc biệt, cuộc đấu tranh của người Mỹ da đen để giành quyền sống diễn ra thường xuyên, mang tính quần chúng rộng rãi. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha chống chế độ độc tài phát xít, nổ ra liên tiếp. Phong trào dân chủ ở Hy Lạp vào thời kỳ này đang được củng cố.

Ở nhiều nước Mỹ Latinh, giai cấp cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha đã bị lật đổ, làm cho đời sống nhân dân vẫn chịu cảnh cơ cực, xã hội càng suy thoái. Lạm phát, nợ nần, thất nghiệp, đói rách là những vấn đề nhức nhối kéo dài, mà chính quyền không giải quyết nổi. Nhân dân nổi dậy lật đổ chính quyền ở nhiều nước: tháng 1-1955, tổng thống Panama, tên độc tài khét tiếng, bị giết chết. Tháng 9-1956, tên độc tài Xômôxa ở Nicaragoa bị hạ sát. Tháng 7-1957, tổng thống Ácmát ở Goatêmala cũng bị chung một số phận, v.v… Những cuộc chính biến quân sự xảy ra liên tiếp ở Achentina, Xanvađo, Haiti, Côlômbia, Vênêduyêla. Ở Urugoay, công nhân đấu tranh buộc quốc hội phải thông qua dự luật trưng thu xí nghiệp ướp lạnh của công ty độc quyền Mỹ ở Môngtêviđêo. Nhiều cuộc đấu tranh biểu lộ thái độ chống chính sách thực dân mới cũng nổ ra rầm rộ, buộc Phó Tổng thống Mỹ Níchxơn phải bỏ dở cuộc “hành trình hữu nghị” đến tám nước Nam Mỹ, hồi cuối tháng 4 đầu tháng 5- 1958.

Ở châu Á, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống sự hà khắc của chính quyền tư sản, chống việc gây thù hằn giữa các dân tộc và chuẩn bị chiến tranh cũng không kém phần sôi nổi, quyết liệt. Ở Nhật Bản có phong trào đấu tranh của quần chúng đông đảo trong công nhân, nông dân và giới trí thức, các nhà tư sản dân tộc đòi dân chủ, chống sự phụ thuộc vào đế quốc Mỹ. Những cuộc khủng bố, bắt bớ, tra tấn lan rộng ở Hàn Quốc, đã gây phẫn nộ ngày càng cao trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, làm nổ ra nhiều cuộc biểu tình, bãi công kéo dài ở nhiều địa phương.

Hoà chung với phong trào chống đế quốc, các Chính phủ Ấn Độ, Miến Điện (nay là Mianma), Nam Dương (nay là Inđônêxia) tích cực thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, xóa bỏ những ảnh hưởng của thực dân trên đất nước mình. Tháng 6-1954. Chính phủ Ấn Độ và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình:

1. Tôn trọng chủ quyền và sự thống nhất lãnh thổ của nhau;

2. Không xâm lược lẫn nhau;

3. Không can thiệp vào nội chính của nhau;

4. Bình đẳng và có lợi cho hai bên;

5. Cùng tồn tại trong hoà bình.

Bản tuyên bố này được Chính phủ Nam Dương (Inđônêxia) ủng hộ. Chính phủ Miến Điện (Mianma) cũng khẳng định năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình là những nguyên tắc bất di bất dịch của mối quan hệ quốc tế giữa các nước trên thế giới. Tại Hội nghị Băngđung tháng 4-1955, đại biểu của 29 nước Á- Phi tham dự, trong đó có Việt Nam, đều lên án chủ nghĩa thực dân và nhấn mạnh năm nguyên tắc nói trên. Tháng 6 cùng năm đó, Đại hội Hoà bình thế giới họp ở Henxinhki (Phần Lan) có gần 2000 đại biểu của 68 nước tham dự. Nhiều đại biểu thuộc các thành phần xã hội khác nhau đã lên án những hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia do các hiệp ước quân sự và căn cứ quân sự của đế quốc gây ra. Chính sách vũ lực, những thủ đoạn can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ ở nhiều khu vực trên thế giới, đều bị vạch mặt, chỉ trích gay gắt. Nhiều đại biểu tán thành năm nguyên tắc chung sống hoà bình, hoan nghênh kết quả của Hội nghị Băngđung, ủng hộ việc giải quyết các vấn đề quốc tế bằng phương pháp thương lượng, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Đó là kết quả sự thức tỉnh của nhân dân thế giới. Loài người đã lên tiếng chống lại chính sách vũ lực, chống lại các khối quân sự, cuộc chạy đua vũ trang và cảnh giác trước nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân. Ngày 6-8, thành phố Hirôsima ở Nhật Bản bị Mỹ ném bom nguyên tử đã được Đại hội quyết định lấy đó làm ngày hoạt động quốc tế cấm vũ khí hạt nhân.

Vùng Trung Đông là nơi tranh chấp kéo dài giữa nhiều cường quốc. Ở đây, phong trào giải phóng dân tộc, chống sự phụ thuộc vào nước ngoài gắn chặt với phong trào đòi cải thiện đời sống, đòi dân chủ. Ý thức dân tộc và phong trào quần chúng mạnh mẽ chống đế quốc thực dân, tác động tích cực đến thái độ và hành động của giới cầm quyền ở nhiều nước Arập. Một trong các yêu cầu quan trọng mà nhân dân đề ra là làm cho các ngành kinh tế quốc dân thoát khỏi ràng buộc vào tư bản nước ngoài, chấm dứt tình trạng các nước tư bản tự do cướp bóc tài nguyên của các nước Arập, đặc biệt là dầu lửa. Việc Ai Cập thực hiện quốc hữu hoá kênh đào Xuyê làm cho các nước tư bản, nhất là những nước có nhiều cổ phần ở đây như Anh, Pháp phản ứng quyết liệt, làm nổ ra cuộc khủng hoảng ở vùng này. Itxraen cùng với Anh và Pháp đưa quân đội tấn công chiếm một số vùng quan trọng dọc theo kênh. Hành động xâm lược này bị nhân dân thế giới lên án kịch liệt, kể cả nhân dân Anh và Pháp. Nhiều cuộc biểu tình phản đối, một số nước cắt quan hệ ngoại giao với Anh và Pháp. Ở Xyri, Libăng nhân dân phá ống dẫn dầu, đốt các trạm bơm của những nước xâm lược trên chạy qua lãnh thổ của mình. Chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa biểu thị thái độ kiên quyết ủng hộ Ai Cập bằng nhiều hành động tích cực. Chính phủ Liên Xô tuyên bố: Ai Cập quốc hữu hoá kênh Xuyê là hoàn toàn hợp pháp và chính đáng, đòi các nước phải tôn trọng phủ quyền của Ai Cập, giải quyết vấn đề kênh Xuyê bằng giải pháp hoà bình. Trước những hành đỏng quân sự liều lĩnh của Anh, Pháp và Itxraen, trong thư gửi cho Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô nói rõ: “Chính phủ Xôviết sẵn sàng dùng sức mạnh để đè bẹp bọn xâm lược và lập lại hoà bình ở khu vực này” 1. Liên Xô còn gửi thư cho tổng thống Mỹ Aixenhao, gợi ý: “Mỹ có lực lượng hải quân quan trọng ở Địa Trung Hải. Liên Xô cũng có một lực lượng hải quân và không quân hùng mạnh. Việc Mỹ và Liên Xô kịp thời sử dụng chung những phương tiện đó theo nghị quyết của Liên hợp quốc sẽ là một đảm bảo chắc chắn để chấm dứt hành động xâm lược chống chính phủ và nhân dân Ai Cập” 2.

Ở Liên Xô và Trung Quốc, có phong trào thanh niên tình nguyện sẵn sàng sang giúp Ai Cập, gửi giúp lương thực, quần áo, thuốc men. Nhân dân Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác đều nhiệt tình ủng hộ Chính phủ và nhân dân Ai Cập.

Tại Anh, các nghị sĩ thuộc Công đảng công khai phản đối quyết liệt chính sách của Chính phủ, đòi thủ tướng Idơn phải từ chức.

Tại Pháp, Đảng Cộng sản lên án cuộc chiến tranh xâm lược ngay từ đầu. Công nhân và các tầng lớp nhân dân đòi Chính phủ Pháp phải ngừng chiến ở Ai Cập, chấm dứt chiến tranh đang diễn ra lúc đó ở Angiêri. Phong trào chống đối sôi sục ở khắp nơi trên thế giới buộc Anh, Pháp và Ixraen, ngày 22-11-1956, phải rút quân khỏi vùng kênh đào Xuyê.
____________________________________
1, 2. Văn Quân: Ai Cập và các nước Arập vùng lên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1957.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:44:37 pm »


Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới

Sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản cùng với phong trào hoà bình trên thế giới đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được củng cố thêm và nối liền từ Âu sang Á, là thành trì của hoà bình và an ninh của các dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ góp phần quan trọng làm suy yếu một bước chủ nghĩa đế quốc. Đây là một trong những thời cơ thuận lợi để các nước xã hội chủ nghĩa tranh thủ xây dựng tiềm lực của mình.

Trên đất nước Liên Xô, kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1951-1955) được hoàn thành trước thời hạn. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1955 tăng 85% so với năm 1950, nhiều gấp 3,2 lần so với trước chiến tranh. Từ năm 1956 đến 1961, gần 6000 xí nghiệp lớn được xây dựng xong và đi vào sản xuất, trong đó có nhà máy thuỷ điện Lênin trên sông Vonga, các nhà máy luyện kim ở Caragađa và Quybisép v.v… Nhiều ngành sản xuất công nghiệp có những bước phát triển lớn, mặc dù trong chiến tranh đã bị tàn phá nghiêm trọng. Về than, năm 1957 Liên Xô chiếm 20% tổng sản lượng thế giới. Về dầu lửa, năm 1958, sản lượng của Liên Xô là 113 triệu tấn, đứng đầu thế giới về tốc độ khai thác dầu lửa hàng năm (từ 1953 đến 1957 mức tăng tuyệt đối hàng năm trung bình là 11,4 triệu tấn, trong khi đó, Mỹ chỉ có 8,8 triệu tấn). Từ 1950 Liên Xô đứng đầu châu Âu và thứ nhì thế giới về sản lượng điện. Năm 1958, những chiếc tuyếcbin lớn đầu tiên của trung tâm thuỷ điện Xtalingơrát với công suất 2 triệu 310 nghìn kw đã đi vào sản xuất, nâng tổng sản lượng điện của đất nước lên 233 tỷ kw/giờ. Liên Xô là nước đi đầu trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình. Tháng 6-1954, ở Liên Xô, lần đầu tiên trên thế giới, một nhà máy điện nguyên tử bắt đầu sản xuất năng lượng điện với công suất 500kw. Sau đó, nhiều trung tâm nguyên tử lớn từ 400 ngàn đến 600 ngàn kw được tiếp tục xây dựng.

Ngành nông nghiệp cũng có những bước phát triển lớn. Năm 1958, tổng số thu hoạch ngũ cốc của toàn Liên bang lên tới 8,5 tỷ pút (1 pút bằng 16,38kg) trong đó có 4,5 tỷ pút lúa mì. Từ 1954 đến 1956, diện tích vỡ hoang đạt 36 triệu héc ta, rộng hơn diện tích trồng ngũ cốc của 9 nước châu Âu cộng lại (Áo, Tây Đức, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Pháp và Italia). Diện tích trồng cây công nghiệp đạt 11,8 triệu hécta. Riêng nước Cộng hoà Udơbêkitxtan sản xuất số lượng bông bằng sản lượng của các nước Braxin, Pakitxtan, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran cộng lại. Ngành chăn nuôi cũng được đẩy mạnh. So sánh năm 1953 với năm 1958, đàn bò tăng từ 55,8 triệu con lên 70,3 triệu con, đàn lợn từ 33,3 triệu con lên 48,5 triệu con, đàn cừu từ 99,8 triệu con lên 129,6 triệu con.

Mạng lưới giao thông được mở rộng. Năm 1956, mạng đường sắt có tổng số chiều dài là 120.700km; đến 1957, Liên Xô vượt lên hàng đầu trong những nước có đường sắt được điện khí hoá (với 7.700km). Đường ôtô, đường sông, đường biển, đường không được khôi phục nhanh chóng sau chiến tranh và được cải tiến rất nhiều, làm cho việc vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân được thuận tiện, an toàn. Những kết quả về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói trên đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao.

Những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong việc phóng vệ tinh và hành tinh nhân tạo lên vũ trụ, phóng tàu vũ trụ mang theo sinh vật và con người và điều khiển nó về quả đất được an toàn, làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa tăng lên rõ rệt.

Các dân tộc yêu chuộng hoà bình đều vui mừng trước sự tiến bộ của đất nước Xôviết về chính trị kinh tế và khoa học kỹ thuật. Về đối ngoại, Liên Xô đã có nhiều cố gắng để làm dịu tình hình thế giới.

Mùa hè 1955, Chính phủ các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp ở Giơnevơ, Liên Xô góp phần tích cực làm cho Hội nghị nhất trí tuyên bố cùng nhau làm dịu tình hình thế giới, gạt bỏ mọi đe doạ chiến tranh và giảm nhẹ gánh nặng quân sự. Tình hữu nghị giữa Liên Xô với nhiều nước Á - Phi : Ấn Độ, Inđônêxia, Ai Cập, Xyri, Apganítxtan, Miến Điện được củng cố. Việc Liên Xô thành lập quan hệ ngoại giao với Campuchia, Xuđăng, Xri Lanca, Tuynidi, Libêria và Nêpan được nhân dân trong nước và thế giới hoan nghênh. Năm 1956, bầu không khí chính trị ở Viễn Đông được cải thiện. Việc bình thường hoá quan hệ giữa Liên Xô và Nhật Bản mở ra triển vọng hợp tác có kết quả giữa hai nước. Nhiều cuộc viếng thăm qua lại của các đoàn đại biểu cấp cao Liên Xô và các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Miến Điện, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Nam Tư, Inđônêxia, Nhật Bản, Yêmen, Ápganixtan, Cộng hoà Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari v.v…, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu biết chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị và thiện chí của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tháng 11-1956, Liên Xô đưa ra một chương trình giảm quân bị, trong đó có việc cấm dùng vũ khí A và thử vũ khí H, song Mỹ cho rằng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô bành trướng thế lực của mình, đe doạ Mỹ, họ tìm mọi cách để từ chối. Tuy vậy, không đợi các nước lớn phương Tây chấp nhận giải trừ quân bị toàn bộ, năm 1957, Liên Xô đơn phương giảm bớt 1,84 triệu quân. Đối với vấn đề an ninh tập thể ở châu Âu và châu Á, Liên Xô chủ trương tạo ra ở châu Âu những đảm bảo vững chắc cho hoà bình và những điều kiện cần thiết cho sự hợp tác kinh tế lâu dài giữa tất cả các nước ở lục địa này. Liên Xô hoan nghênh hội nghị Băngđung và coi đó là “một cống hiến quý báu cho hoà bình thế giới”. Trước tình hình căng thẳng và phức tạp ở Trung và Cận Đông, tháng 2-1957, Chính phủ Xôviết gửi thông điệp cho Mỹ, Anh, Pháp đề nghị tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc cơ ban của Bản tuyên bố chung của Hội nghị những người đứng đầu các chính phủ Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp họp ở Giơnevơ mùa hè năm 1955, bảo đảm hoà bình và an ninh ở Trung, Cận Đông và không can thiệp vào nội bộ của các nước trong khu vực này. Cụ thể là giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở thương lượng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước, không lôi kéo các nước đó vào các khối quân sự, trong đó có các nước lớn tham gia; huỷ bỏ các căn cứ quân sự nước ngoài, triệt hồi quân đội nước ngoài đóng ở Trung, Cận Đông, cắt đứt việc cung cấp vũ khí cho khu vực này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:47:39 pm »


Công cuộc xây dựng đất nước ở các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến giữa thập kỷ 50 đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp, mặc dù gặp nhiều khó khăn.

Các nước Đông Âu như Tiệp Khắc, Ba Lan, Đông Đức, Hunggari, Bungari, Rumani, Anbani... là những nước bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau khi hoà bình được lập lại, với sự giúp đỡ của Liên Xô, nhân dân lao động ở những nước này xây dựng lại đất nước, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân với tốc độ khá nhanh.

Ở Tiệp Khắc, tổng sản lượng công nghiệp năm 1955 tăng gấp bốn lần năm 1937. Công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp tiến hành có kết quả tốt. Tới năm 1958, số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã quản lý tới 70% diện tích cày cấy của cả nước; sản xuất nông nghiệp tăng 33% so với năm 1948.

Ở Ba Lan, sau khi thực hiện kế hoạch sáu năm phát triển kinh tế (1950-1955), sản xuất công nghiệp tăng gấp 2,8 lần so với năm 1949 và 5 lần so với trước chiến tranh chống phát xít Đức. Nhiều ngành công nghiệp được hoàn toàn đổi mới như luyện kim, hoá chất và chế tạo máy móc, đồng thời cũng xuất hiện những ngành công nghiệp mới như công nghiệp xe hơi, máy kéo, đóng tàu thuỷ. Trong khi công nghiệp phát triển mạnh, sản lượng tăng 5 lần so với trước chiến tranh, thì nông nghiệp không được đầu tư thích đáng, chỉ tăng có 8%. Tình trạng đó ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân và là một nguyên nhân làm nổ ra vụ rối loạn Pôdơnan1 tháng 6-1956. Đảng công nhân thống nhất Ba Lan đã rút kinh nghiệm, khắc phục sai lầm, do đó đã đẩy lùi được âm mưu địch kéo Ba Lan khỏi phe xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc xây dựng đất nước ở Hunggari vào những năm 50 gặp rất nhiều khó khăn, vì một nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh: mất hết thiết bị các nhà máy, tất cả 1400 cầu trên sông Đanuýp và sông Títda bị phá hủy, hơn 50% số gia súc bị giết. Song, từ sau 1954, tranh thủ thời gian hoà bình và được sự giúp đỡ của Liên Xô, sự hợp tác giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế quốc dân đã có nhiều biến chuyển quan trọng: sản lượng về công nghiệp, nông nghiệp vào những năm 1955-1957 đều tăng hơn những năm trước chiến tranh, tạo cơ sở cho việc phát triển tiếp sau này. Tháng 10-1956, lợi dụng tình hình khó khăn và một sai lầm của Đảng, Nhà nước Hunggari, những thế lực chống đối đã gây ra cuộc bạo động vũ trang, đẩy chính quyền nhân dân đến nguy cơ bị lật đổ. Được sự giúp đỡ kịp thời và tích cực của Liên Xô, những người cách mạng chân chính Hunggari được giai cấp công nhân ủng hộ, đã kiên quyết thành lập Chính phủ công nông cách mạng và dập tắt được cuộc bạo động. Bọn gây bạo loạn bị đánh bại2.

Ở Đông Đức, công cuộc xây dựng xã hội mới được tiến hành với ý thức lao động xã hội chủ nghĩa và tinh thần kỷ luật rất cao của toàn dân. Sau khi hoàn thành thắng lợi kế hoạch kinh tế 2 năm (1949-1950), nước Cộng hoà Dân chủ Đức đã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1951-1955), tạo cơ sở để vươn lên thành một trong 10 nước công nghiệp tiên tiến trên thế giới và là nước đứng hàng đầu châu Âu về sản lượng điện theo đầu người, nước thứ hai trên thế giới về sản lượng hoá chất theo đầu người vào những năm 1956-1960. Sau kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1956-1960), tổng sản lượng công nghiệp tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh. Hợp tác hoá nông nghiệp được hoàn thành. Mức thu nhập của xã viên xấp xỉ mức thu nhập của công nhân nông nghiệp.

Ở nước Công hoà Nhân dân Rumani, kế hoạch 5 năm lần thứ hai bắt đầu được thực hiện từ năm 1953 và hoàn thành vào năm 1957. So với năm 1952, một số ngành công nghiệp nặng đạt mức tăng trưởng đáng phấn khởi: điện tăng 167%, sản lượng than đá tăng 153%, quặng sắt tăng 236%, xi măng tăng 125%, thịt tăng 67%, đường tăng 207%, đồ hộp tăng 13%. v.v… Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đến năm 1958, khu vực xã hội chủ nghĩa đã sản xuất 98% sản lượng công nghiệp, hơn 90% sản lượng nông nghiệp.

Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: Sau khi được thành lập tháng 10-1949, nhân dân Trung Quốc triển khai kế hoạch phục hồi đất nước. Đến năm 1954, giá trị tổng sản lượng công, nông nghiệp toàn quốc gần gắng 2,2 lần năm 1949. Tỷ trọng sản lượng công nghiệp hiện đại với tổng sản lượng công, nông nghiệp trong năm 1949 chỉ có khoảng 17%, nhưng đến năm 1954, đã tăng lên tới 33%. Đến năm 1952, sản lượng những nông phẩm chủ yếu đã vượt mức năm cao nhất hồi trước chiến tranh chống Nhật. Tổng sản lượng lương thực lên tới 163 triệu tấn, vượt mức trước chiến tranh 9%; bông tới hơn 1 triệu tấn, vượt 52% v.v… Về hợp tác hoá nông nghiệp, năm 1950 chỉ có 11% số hộ nông dân tham gia, năm 1952 đã có 42% và năm 1955: 60% số hộ đã vào hợp tác xã. Mạng lưới thuỷ lợi được mở rộng. Năm 1949 mới có 230 triệu mẫu Trung Quốc được tưới nước qua hệ thống thuỷ lợi, đến năm 1959 số ruộng được tưới đã là 1070 triệu mẫu. Mạng đường sá trên bộ, trên sông, biển, đường hàng không đều phát triển hơn trước nhiều. Trong 9 năm từ 1949 đến năm 1958, đường sắt tăng thêm hơn 100.000 km, đường ôtô tăng 360.000 km, đường hàng không tăng 22.000 km. Đời sống vật chất và văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân được nâng cao rõ rệt. Chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đoàn kết được toàn dân hướng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ những thành qua cách mạng đã giành được.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc vẫn tích cực giúp đỡ các nước anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình trên thế giới. Trong những năm 1954-1955, tình hữu nghị giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với các nước Á-Phi được mở rộng và phát triển lên một bước mới, tốt đẹp. Tại nhiều hội nghị quốc tế về nhiều lĩnh vực khác nhau trong sinh hoạt chính trị thế giới, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có vai trò quan trọng và tiếng nói được nhiều nước hoan nghênh. Sự ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Triều Tiên và cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc chiến tranh chống xâm lược nói trên. Vì vậy, uy tín quốc tế của Trung Quốc trong thời kỳ này được tăng lên rất nhiều.

Ở nước Công hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: giai đoạn khôi phục đất nước bắt đầu từ năm 1954 đến hết năm 1956 và sau đó bước vào giai đoạn phát triển toàn diện. Nhân dân Bắc Triều Tiên nêu cao tinh thần cần kiệm xây dựng đất nước, đã thực hiện thắng lợi các kế hoạch khôi phục kinh tế. Riêng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phần công nghiệp được hoàn thành trong hai năm rưỡi. Về nông nghiệp, năm 1958, hợp tác hoá cơ bản được hoàn thành. Tổng sản lượng lương thực năm 1944 là 2,41 triệu tấn, đến năm 1960 đã lên tới 3,80 triệu tấn. Đời sống văn hoá được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Năm 1958, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là nước đầu tiên ở phương Đông thi hành chế độ giáo dục bắt buộc bậc trung học.

Nước Công hoà Nhân dân Mông Cổ. Từ một nước chỉ có ngành chăn nuôi sau kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1953-1957) đã trở thành một nước nông, công nghiệp. Năm 1959, công cuộc tập thể hoá nông nghiệp được hoàn thành. Đàn gia súc năm 1921, khi cách mạng mới thành công, chỉ có hơn 9 triệu con, đến năm 1959 đã có 23 triệu con, trong đó 80% thuộc sở hữu quốc doanh. Diện tích trồng trọt của nông trường quốc doanh năm 1957 có 75.700 mẫu, đến năm 1960 đã lên tới 255.500 mẫu. Đời sống nhân dân ổn định.

Tình hình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học - kỹ thuật ở các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo cho các nước này một vị thế mới, làm cho so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới thay đổi lớn, có lợi cho hoà bình, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ở các nước xã hội chủ nghĩa mọi người dân đều được bình đẳng, tự do, đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá từng bước được cải thiện. Mặc dù còn nhiều khó khăn trên bước đường đi tới tương lai, nhưng những thay đổi đó là căn bản, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của các đảng cộng sản, mối đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo ở mỗi nước, tình đoàn kết quốc tế, sự giúp đỡ lẫn nhau, ý chí đấu tranh kiên quyết vì hoà bình và tiến bộ xã hội, đã nâng cao uy tín các nước xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế. Chính những nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm nên những kỳ tích trong lịch sử nhân loại ở nửa đầu thế ký XX: Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga; chiến thắng phát xít Hítle và quân phiệt Nhật trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945) của nhân dân Liên Xô; Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (10-1949); Cách mạng Tháng Tám và Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp, mở đầu sự tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Những sự kiện đó đã làm thức tỉnh loài người tiến bộ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân áp bức bóc lột ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình. Đồng thời, nó kích thích đến cao độ phong trào đòi dân chủ, đòi cải thiện đời sống, đòi quyền bình đẳng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa.
______________________________________
1. Pôdơnan là một trong những thành phố công nghiệp lớn của Ba Lan. Ngày 28-6-1956, công nhân các nhà máy ở đây bất bình với việc tổ chức tiếp tế không chu đáo, làm thiệt hại một phần lương, nên đã bãi công và biểu tình trên đường phố. Bọn phản động tay sai đế quốc lợi dụng tình hình này huy động những nhóm vũ trang được chuẩn bị từ trước cùng những bọn người theo chúng, tấn công các công sở và tuyên truyền lăng mạ, đòi lật đổ chính quyền nhân dân. Những vụ rối loạn làm 53 người chết, 300 người bị thương, phần lớn thuộc các lực lượng công an (dựa theo Tạp chí Dân chủ mới của Đảng Cộng sản Pháp số 8, tháng 8-1956).
2. Vụ bạo động không phải xảy ra ngẫu nhiên mà là một âm mưu đã được chuẩn bị từ lâu với sự giúp đỡ và chỉ huy của phương Tây. Những phần tử cầm đầu phần lớn là những tên đã bị toà án nhân dân kết án về tội phản quốc, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Trong khi đó: một số người lãnh dạo trong Đảng Lao động và Nhà nước Hunggari lúc đó vì “say sưa với thắng lợi” của sự nghiệp xây dựng đất nước, đã vi phạm những nguyên tắc dân chủ, xa rời quần chúng, không thấy những khuyết điểm trong việc phát triển kinh tế, mất cảnh giác trước những hoạt động phá hoại. Nội bộ lãnh đạo thiếu đoàn kết thống nhất, làm yếu sức chiến đấu của tổ chức đảng, gây bất mãn trong quần chúng. Lợi dụng tình hình đó, ngày 23-10-1956, bọn chống đối kích động quần chúng biểu tình ở Thủ đô Buđapét và dùng lực lượng vũ trang đã được chuẩn bị tiến hành bạo động, đánh vào các cơ quan hành chính và các mục tiêu quan trọng khác như sân bay, ga xe lửa, nhà máy sản xuất vũ khí. Báo chí, truyền đơn phản cách mạng được phát hành. Những chủ trương của Trung ương Đảng vũ trang cho công nhân, huy động toàn bộ lực lượng công an, tuyên bố tình trạng khẩn cấp… không được thực hiện, do sự phản bội của những tên chống đối nằm trong bộ máy chính quyền như Cục trưởng cục cảnh sát Kôpắcxi, đại tá Malêtơ trong Bộ Quốc phòng, Imrê Nátgơ làm Thủ tướng từ tối 23-10. Chính vì vậy bọn chúng thả sức hoành hành, tàn bát những người cộng sản và quần chúng trung thành với chính quyền nhân dân. Chỉ trong vài ngày, toàn quốc lâm vào tình trạng vô chính phủ. Trong những giờ phút nguy ngập đó, Chính phủ công nông cách mạng được thành lập do Ianốt Cađa đứng đầu, đã tập hợp các lực lượng trung thành với cách mạng để phản công lại, đồng thời yêu cầu quân đội Liên Xô giúp khôi phục lại trật tự. Ngày 4-11-1956, cuộc bạo động bị đập tan.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2010, 09:49:56 pm »


Ngược lại, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong các nước tư bản cũng động viên nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ nhân dân nỗ lực xây dựng chế độ mới vững mạnh, để làm chỗ dựa và góp phần ngày càng có hiệu quả vào cuộc đấu tranh chung đang diễn ra sôi nổi trên khắp hành tinh. Đế quốc Mỹ cho rằng sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới dẫn đến sự tan rã của hệ thống thuộc địa, là do “cộng sản mở rộng bá quyền”, Mỹ và phe Mỹ phải ngăn chặn để bảo vệ “thế giới tự do”. Song, chủ nghĩa tư bản thế giới đang gặp nhiều khó khăn lớn, phải dựa vào Mỹ.

Nước Pháp sau thất bại ở Việt Nam đã rơi vào một tình trạng suy thoái kéo dài trong nhiều năm. Chính quyền đương thời vừa phải giải quyết hậu quả của chiến tranh Đông Dương, trong khi vẫn tiếp tục duy trì chế độ thực dân ở Angiêri bất chấp phong trào cách mạng ở đây đã phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Những cuộc đấu tranh giành độc lập ở các nước khác trong hệ thống thuộc địa của Pháp, việc thi hành Hiệp định Giơnevơ và ổn định tình hình nội bộ, cũng như giải quyết những mối quan hệ phức tạp giữa các nước Tây Âu lúc đó, đặt chính phủ Pháp trước tình cảnh vô cùng bê bối. Nền tài chính kiệt quệ, lạm pháp tăng, số người thất nghiệp ngày càng đông. Ngay từ những năm 1951-1953, nhiều ngành kinh tế quan trọng của Pháp như khai thác than, dầu lửa, sản xuất điện bị suy sụp. Mức sống của nhân dân sút kém. Tiền lương của khoảng 60% công nhân viên thấp hơn nhu cầu tối thiểu cho đời sống. Hàng triệu gia đình không nhà cửa. Ở nông thôn, 60 vạn gia đình nông dân không có điện. Trong số 35.000 xã, chỉ có 11.000 xã được cung cấp nước sạch. Việc nhập và bán phá giá sản phẩm nông nghiệp của Mỹ càng làm cho nông dân thêm điêu đứng. Hàng triệu các nhà tiểu nông không có khả năng sinh sống trên mảnh đất của họ. Vai trò của Pháp trên trường quốc tế giảm sút nhiều. Tuy vậy, những người cầm quyền lúc đó ở Pháp vẫn đeo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược ở Angiêri, đẩy nước Pháp càng lún sâu vào cuộc tổng khủng hoảng. Tình hình trên làm cho Pháp càng bị ràng buộc vào viện trợ và chính sách của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Thái độ của Pháp sau Hội nghị Giơnevơ là biểu hiện của sự ràng buộc đó. Chính phủ Măngđét Phrăngxơ theo đuôi Mỹ vừa muốn thiết lập các quan hệ văn hoá và kinh tế với miền Bắc Việt Nam, để tạo những thuận lợi trong tương lai, vừa muốn không làm phật ý Mỹ để tiếp tục được Mỹ viện trợ. Chính sách đó đã bị phá sản. Pháp phải cam chịu một bề, để cho Mỹ độc chiếm miền Nam Việt Nam và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược mà Pháp không theo đuổi được. Pháp còn gia nhập khối SEATO, từ bỏ trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ mà họ đã ký kết và cam đoan thực hiện nghiêm chỉnh.

Tình hình rối ren nói trên làm cho mâu thuẫn trong nội bộ giới cầm quyền và giữa các đảng phái ở nước Pháp ngày càng sâu sắc, nhất là trong những năm từ 1954 đến 1960. Phái hữu trong chính quyền vẫn chi phối việc hoạch định chính sách của chính phủ. Vì vậy, những quyền dân chủ của nhân dân như quyền tự do báo chí, quyền tự do hội họp, v.v… Đều bị hạn chế. Ở các thuộc địa còn lại của Pháp, những hành động khủng bố, đàn áp dã man những người yêu nước, cùng với những cuộc đấu tranh đòi quyền sống, đòi hoà bình và cơm áo của nhân dân lao động diễn ra khắp nơi. Pháp càng gặp khó khăn càng phải theo đuôi Mỹ.

Nước Anh, một nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, có nền kinh tế rất mạnh, nhưng vào những năm 50 không còn giữ được vai trò quốc tế của mình như trước nữa. Hệ thống thuộc địa của Anh bị tan rã không cứu vãn được. Mặc dù Anh còn giữ được mức sản xuất công nghiệp trước chiến tranh, nhưng nền kinh tế tài chính bị khủng hoảng nghiêm trọng1.

Trong khi đó, sự lớn mạnh của phong trào công nhân trong nước cũng như trên thế giới, sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa làm cho những người cầm quyền nước Anh phải nhượng bộ Mỹ trong nhiều vấn đề quốc tế. Những giới cực hữu cho rằng lối thoát duy nhất là con đường tranh thủ viện trợ của Mỹ. Đương nhiên, viện trợ Mỹ có tác dụng đối với nước Anh, cũng như các nước khác trong việc phục hồi kinh tế, song, lại bị Mỹ chèn ép về nhiều mặt. Ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ đã chiếm của Anh những vị trí chủ chốt, giàu dầu lửa ở Trung, Cận Đông. Năm 1937, Mỹ chỉ nắm được 13% số nước có dầu ở Cận Đông, Anh nắm hơn 80%. Đến năm 1956, Mỹ đã kiểm soát được hơn 60%, còn Anh chỉ giữ được khoảng 30%. Sau thất bại trong cuộc xâm lược Ai Cập, Anh và Pháp mất nhiều ưu thế và quyền lợi ở vùng này. Ở các nước thuộc địa của Anh, hàng hoá của Mỹ đưa vào ngày càng tăng2. Đồng thời Mỹ lại kiểm soát được các nguyên liệu quan trọng ở các thuộc địa này.

Ở Cộng hoà Liên bang Đức, tình hình vào những năm từ 1950 đến 1960 có nhiều điểm đặc biệt. Được Mỹ tích cực chi viện với mưu mô làm cho Tây Đức vượt hẳn lên để trở thành lực lượng chủ yếu của khối NATO. Tây Đức đã phát triển rất nhanh về kinh tế. Trong 10 năm kể từ 1950, mức tăng trung bình hàng năm của sản lượng công nghiệp đạt 9,6%. Đầu thập kỷ 60, Tây Đức đã vượt Anh, đứng thứ hai trong các nước tư bản về sản xuất công nghiệp. Với tốc độ phát triển đó, lại được Mỹ đỡ đầu và Anh, Pháp nhượng bộ, việc tái vũ trang Tây Đức được thực hiện, quân đội chính quy của nước Đức bại trận được phục hồi dưới danh nghĩa quân đội châu Âu của khối NATO.

Trong thời gian này, ở châu Á, nước Nhật đã lập lại được mức thu nhập bình quân theo đầu người của thời kỳ trước chiến tranh (1934-1936). Bước vào năm 1955, Nhật Bản không ngừng là vô địch tuyệt đối về chỉ số tăng trưởng của tổng sản lượng quốc gia (GNP). Chỉ số tăng trưởng đã đạt mức bình quân 9,9% trong suốt thập niên 1955-1965. Cũng trong năm 1955, uy tín về kinh tế của Nhật trên thế giới được đánh dấu bằng việc gia nhập Quỹ tiền tệ quốc tế IMF và Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).

Mỹ cần một nước Nhật đồng minh để đối phó với Liên Xô và Trung Quốc, biến nước Nhật thành hậu phương của cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam và thành trì của “thế giới tự do” nằm sát Trung Quốc, Liên Xô. Mỹ ký Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ. Hiệp ước nêu rõ: Nhật nằm trong hệ thống chiến lược nguyên tử của Mỹ và là căn cứ chiến tranh hạt nhân ở châu Á. Nước Nhật trở thành trung tâm để Mỹ cung cấp vũ khí, đạn dược cho khối SEATO, phục vụ cho âm mưu xâm lược và mở rộng thế lực của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Chính quyền Nhật phải thực hiện những điều khoản của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật làm cho nhân dân rất bất bình. Năm 1960, phong trào phản kháng bùng nổ. Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Hội sinh viên quốc gia phản đối. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra và lan rộng khắp nước. Thủ tướng Nhật Kisi buộc phải từ chức. Chuyến viếng thăm Nhật của Tổng thống Mỹ Aixenhao bị huỷ bỏ. Phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật chống lại chính sách của chính quyền, chứng tỏ quần chúng Nhật không muốn phụ thuộc vào Mỹ, làm mất chủ quyền của Nhật và gây nguy cơ lớn cho việc giữ gìn hoà bình ở khu vực và trên thế giới. Đối với Mỹ, việc viện trợ cho Nhật đã đưa lại kết quả rõ rệt trong việc biến nước này thành căn cứ quân sự lớn của Mỹ, nhưng lại làm cho nước này thành một cường quốc về kinh tế, cạnh tranh với các nước đế quốc khác, kể cả Mỹ.

Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn, các nhà cầm quyền Mỹ có tham vọng “điều chỉnh thế giới” vào quỹ đạo của Hoa Kỳ. Xuất phát từ tư tưởng chống cộng sản, Mỹ lập ra nhiều căn cứ quân sự ở khắp nơi trên thế giới, nhằm bao vây Liên Xô, Trung Quốc và những nước dân chủ nhân dân. Năm 1955 là năm chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm bao vây ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên thế giới lên tới đỉnh cao. Mỹ đã đặt được khoảng 1400 căn cứ quân sự ở 31 nước, trong đó có 275 căn cứ dùng cho máy bay chiến lược ném bom nguyên tử. Những khối quân sự do Mỹ cầm đầu ra đời.

Tháng 10-1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập là một cú “sốc” mạnh đối với Mỹ. Chính quyền Mỹ lúc đó quyết định phải vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu Á. Trước thành công của Liên Xô về củng cố quốc phòng, có bom A và H, phóng thành công tên lửa vũ trụ, Mỹ càng lao vào cuộc chạy đua vũ trang.

Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đã làm cho chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ lo sợ. Đế quốc Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, kẻ bóc lột lớn nhất và là tên trùm chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó nhiều vấn đề của nội bộ nước Mỹ như những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính (1953-1954 - 1957-1958), nạn thất nghiệp, tệ phân biệt màu da, những cuộc khủng bố gây mất trật tự an ninh xã hội không được khắc phục.

Nhằm giải quyết những vấn đề trên, chính quyền Mỹ lại hướng các chủ trương của họ vào việc chống chủ nghĩa cộng sản ở khắp các châu lục. Chiến tranh lạnh vẫn tiếp diễn ngày càng gay gắt, nhưng vẫn có hoà hoãn bộ phận. Trong thế hình thành hai cực trên thế giới, hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vừa chống đối nhau quyết liệt, đồng thời vẫn phải hợp tác với nhau trong những chừng mực có thể chấp nhận được để giai quyết các vấn đề quốc tế.

Lợi dụng những thời khắc hợp tác hoà hoãn, Mỹ tranh thủ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ở mọi nơi bằng viện trọ và bằng hành động quân sự làm cho tình hình thế giới càng căng thẳng thêm và Mỹ càng bộc lộ rõ bản chất gây chiến và xâm lược.

Những nước đồng minh của Mỹ như Anh, Pháp, Tây Đức, Nhật, sau khi được Mỹ vực lên đã trở thành những đối thủ cạnh tranh lợi hại. Nước Mỹ có tiềm lực mạnh về kinh tế và quân sự, nhưng lại yếu về chính trị trên phạm vi thế giới. Không nhận ra điều đó, Mỹ thường bị động đối phó với phong trào chống Mỹ nổi lên trong nhân dân các nước châu Âu, châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Mặc dù trong những năm 50, trọng điểm chiến lược toàn cầu của Mỹ được xác định là châu Âu nhưng Mỹ phải phân tán khá nhiều lực lượng ra những nơi khác, đặc biệt ở châu Á. Tiến hành chiến tranh xâm lược ở Triều Tiên, can thiệp ngày càng sâu rộng vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam, Lào và Camphuchia. Năm 1957, các nước Tây Âu lập khối Thị trường chung châu Âu không có Mỹ. Năm 1958, Tổng thống Đờgôn không cho khối NATO đặt tên lửa trên đất Pháp, đòi rút hết các căn cứ quân sự của khối này ra khỏi nước Pháp. Năm 1959 Anh cùng với ba nước Bắc Âu, hai nước Trung Âu và Bồ Đào Nha lập khối Mậu dịch tự do châu Âu cũng không có Mỹ. Những sự kiện đó làm cho mâu thuẫn trong khối các nước tư bản chủ nghĩa bộc lộ ngày càng thêm sâu sắc. Trong khi đó, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những phát triển mới, nhưng cũng nảy sinh những mối bất đồng. Chiến tranh lạnh càng phức tạp hơn. Những nước được gọi là “thế giới thứ ba” đòi hỏi Liên hợp quốc phải đáp ứng những yêu cầu ngày càng tăng về việc chấm dứt sự “chậm phát triển”. Điều này đụng đến các nước đế quốc, họ cho rằng “thế giới thứ ba” đang có xu hướng chống phương Tây. Sự hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội đối với những nước đã giành được độc lập và đang đấu tranh để xây dựng đất nước và bảo vệ hoà bình, làm cho Mỹ và các nước đế quốc khác càng ra sức chống chủ nghĩa cộng sản, chống Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chú nhân dân. Mỹ tự dựng lên những “nguy cơ cộng sản” để tự hù doạ mình bằng “học thuyết” đôminô. Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân thế giới trong những năm 1950 làm cho Mỹ tìm cách ngăn chặn và dấn sâu vào sự can thiệp thô bạo ở khắp nơi.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hệ thống xã hội chủ nghĩa được mở rộng, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản liên kết, hợp thành ba dòng thác cách mạng lớn, lại có thêm điều kiện khách quan và chủ quan để tấn công vào chủ nghĩa đế quốc. Khí thế chung trong phong trào cách mạng thế giới mạnh mẽ thêm. Phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm là đặc điểm rõ nhất của phong trào trong những năm cuối của thập kỷ 50. Hệ thống xã hội chủ nghĩa là chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc, chống áp bức bóc lột, là lực lượng trụ cột của phong trào đấu tranh cho hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nhằm bao vây, chia rẽ, chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, duy trì địa vị lãnh đạo “thế giới tự do”. Chiến tranh lạnh diễn ra gay gắt. Đó là bối cảnh lịch sử tác động đến diễn biến cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
______________________________________
1. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai chi phí quân sự của Anh mất 25 tỷ bảng, tổn thất gần 1/3 trọng tải thương thuyền, mất 1/3 số vốn gửi ở nước ngoài. Số vàng và ngân phiếu dự trữ chỉ còn gần 50% Anh trở thành con nợ lớn trên thế giới, phải nhập 2/3 lương thực và hầu hết nguyên liệu (trừ than ).
2. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tỷ lệ hàng của Anh đưa vào là 31%, của Mỹ chỉ có 20%. Đến năm 1952, số hàng Mỹ đã ngang số hàng Anh và vượt lên trong những năm sau.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM