Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 04:26:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hình ảnh & Tiểu sử Lãnh đạo, Tướng lĩnh, Sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam  (Đọc 826467 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #110 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2008, 12:45:34 am »


Thiếu tướng Cao Pha (?-2006), nguyên Viện phó Viện lịch sử Quân sự Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng; Cục phó Cục Quân báo kiêm Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công (khi mới thành lập).

Thiếu tướng Cao Pha tên thật là Nguyễn Thế Lương quê ở xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Bố của ông, ông Nguyễn Hoàng, vốn làm nghề thầu khóan các công trình xây dựng khắp ba nước Đông Dương, cho nên ông từng theo cha ông sinh sống ở nhiều nơi. Thuở nhỏ ông theo học ở Phnôm Pênh nơi bố ông cai thầu xây dựng đường (nghề lục lộ). Khi bố ông chuyển về Nha Trang nhận cai thầu xây dựng tuyến đường sắt thì ông theo học ở trường Quốc học Huế. Học xong tú tài, ông ra Hà Nội và được học bổng của trường Nông Lâm.

Là một thanh niên yêu nước, tại Hà Nội, ông tích cực tham gia các phong trào của Tổng hội sinh viên, Hội truyền bá quốc ngữ. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tháng 3 năm 1945, ông cùng một đoàn sinh viên vào Huế rồi vào học trong Trường thanh niên tiền tuyến và hoạt động trong tổ chức Việt Minh của trường.

Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thành công tại Hà Nội, ngày 21/8 ông cùng các ông Đặng Văn Việt và Nguyễn Kèn được cử đi hạ cờ quẻ ly của Bảo Đại và treo cờ đỏ sao vàng lên cột cờ trước cồng Ngọ Môn Huế rồi đi cùng đoàn đưa Vĩnh Thụy (tên thật của Bảo Đại) ra Hà Nội do Bộ trưởng Lê Văn Hiến làm trưởng đoàn. Quay trở về Huế, ông nhận nhiệm vụ Trưởng ban tình báo Thừa Thiên Huế, Trưởng ban tình báo Phân khu Trị Thiên Huế rồi Trưởng ban tình báo Khu 4. Sau đó, ông được điều ra Hà Nội lên Sơn Pháp làm cán bộ huấn luyện cho trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa 1.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến (12/1946), ông được điều làm Tiểu đoàn trưởng tham gia chiến đấu tại Sơn La. Theo yêu cầu của công việc, trong thời gian chiến đấu ở Sơn La ông đổi tên thành Cao Pha (tên một ngọn núi ca giáp ranh giữa Sơn La và Lai Châu) và được cử làm Trưởng ban Quân báo trong Chiến dịch Biên giới 1950. Cũng trong chiến dịch Biên giới, ông nhận nhiệm vụ từ Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chọn địa điểm và tháp tùng Bác trực tiếp đi thị sát trận địa ở gần sở chỉ huy Nà Lạng.

Sau Chiến dịch Biên giới, ông tiếp tục phụ trách quân báo trong các chiến dịch quan trọng khác như : Trung du, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hòa Bình, Pháp Bắc, Thượng Lào và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ (mật danh Trần Đình).
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, ông được cử đi học tập tại Liên Xô. Về nước, giữa năm 1966 chủ tịch Hồ Chí Minh và quân uỷ trung ương đề cập tới vấn đề thành lập binh chủng đặc công. Cuối năm 1966 Cao Pha và ông Nguyễn Cụ (cán bộ đặc công miền Nam cử ra) được chỉ thị đến gặp chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo tình hình xây dựng lực lượng và hoạt động chiến đấu của bộ đội đặc công trên các chiến trường miền Nam.

Sau đó tháng 2-1967 Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập binh chủng Đặc công.  Ngày 19-3-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng và Chính phủ đến thăm bộ đội  đặc công, công nhận bộ đội Đặc công chính thức là một binh chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thượng tá Cao Pha được quyết định là Phó tư lệnh binh chủng đặc công đồng thời vẫn ở cương vị  Cục phó Cục Tình báo nên có thuận lợi nắm chắc tình hình địch trên chiến trường góp phần cùng bộ đội đặc công đánh thắng trong các trận mật tập vào các căn cứ quan trọng đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Cam Ranh, Đông Hà, Cửa Việt... trong kháng chiến chống Mỹ.

Năm 1975 Cao Pha được điều về Ban Tổng kết chiến tranh của Quân uỷ Trung ương do Đại tướng Hoàng Văn Thái trực tiếp phụ trách. Năm 1981 ông nhận quyết định làm Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Bộ Quốc phòng. Do có nhiều công trình xứng đáng ông được Nhà nước phong học hàm Phó Giáo sư. Thiếu tướng Phó Giáo sư Cao Pha về hưu năm 1983.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, những thông tin chính xác của quân báo do ông chỉ huy về tình hình quân Pháp là một trong những căn cứ quan trọng để Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đổi phương châm của chiến dịch.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Hai, 2011, 02:02:24 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #111 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2008, 02:01:11 am »


Trung tướng Lê Hiến Mai (1918-1992), nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Giám đốc Học viện Chính trị Quân sự, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Thương binh và Xã hội), Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Điện lực. Ông là một trong các tướng được phong quân hàm trong đợt đầu (1948).

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất...

Thiếu tướng (1948 trong đợt phong quân hàm tướng đầu tiên), Trung tướng (1974).


Ông tên thật là Dương Quốc Chính; quê xã Trạch Mỹ Lộc, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, tham gia cách mạng từ năm 1939. Năm 1940, là thư ký Ban chấp hành Đoàn Thanh niên phản đế tỉnh Sơn Tây. Từ 1941 đến 1944, bị thực dân Pháp bắt giam và đày đi tù ở nhiều nơi. Tháng 8.1944, ông vượt ngục, tham gia Cứu quốc quân, lấy bí danh Lê Hiến Mai, giữ chức Ủy viên phân khu ủy Phân khu Tuyên - Thái; Phái viên chính trị Giải phóng quân phụ trách Mặt trận Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Lào); Chính trị viên, Bí thư trung đoàn ủy.

3.1946, Chính ủy, kiêm Tham mưu trưởng, Bí thư quân khu ủy Chiến khu 2, kiêm Chính ủy Trường bổ túc quân sự ủy viên hội. Từ 2.1947 đến 949, lần lượt giữ các chức vụ Chính ủy Mặt trận Tây Tiến, Liên khu 1, Bộ Tư lệnh Nam Bộ, kiêm Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. 1953, à Tư lệnh, Bí thư quân khu ủy Phân liên khu miền Tây Nam Bộ. Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc làm Chính ủy, Bí thư đảng ủy Bộ Tư lệnh Pháo binh (1958).

Tháng 7.1960, ông làm Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Điện lực rồi Bộ Nông nghiệp. Tháng 4.1965, là Chính ủy, Bí thư đảng ủy Quân khu 4, Ủy viên Quân ủy Trung ương. Năm 1967, ông làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Ủy viên thường trực Quân ủy Trung ương, kiêm Giám đốc Học viện Chính trị Quân sự; từ tháng 6 năm 1971: kiêm Bộ trưởng, Bí thư đảng đoàn Bộ Nội vụ (sau đổi là Bộ Thương binh và Xã hội).

Năm 1976, ông làm Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Năm 1982, là Chủ nhiệm Ủy ban Y tế - Xã hội của Quốc hội, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh xâm lược. Năm 1990, ông làm Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trung tướng Lê Hiến Mai là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa III và IV; đại biểu Quốc hội các khóa III, V, VI và VII.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Hai, 2011, 02:04:58 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #112 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2008, 03:29:33 am »


Trung tá Đặng Văn Việt sinh năm 1920 tại Nghệ An trong một gia đình khoa bảng có ông nội và bố đỗ đạt cao từng làm quan dưới triều Nguyễn. Ông nội ông là cụ Đặng Văn Thụ đỗ Hoàng giáp năm 1904, từng giữ chức Tế tửu Quốc tử giám Huế  (giống như Hiệu trưởng Đại học quốc gia ngày nay). Bố ông là cụ Đặng Văn Hướng, đỗ Phó bảng năm 1919 từng giữ chức Thị lang ở Bộ công, Tham tri Bộ hình ở Huế, rồi Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim. Sau cách mạng cụ Hướng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng không bộ phụ trách ba tỉnh khu Bốn là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Gia đình ông cao sang bậc nhất 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Gia đình bên ngoại ông giàu nhất nhì Hà Nội thời bấy giờ.

Ông nói thành thạo tiếng Pháp tiếng Anh và đọc được cả 2 cổ ngữ là chữ La tinh, và chữ Gréc. Ông từng học Quốc học Huế, sau khi đỗ tú tài toàn phần ông ra Hà Nội học ở Trường Y nhưng chưa tốt nghiệp thì Nhật đảo chính Pháp. Trường Y phải đóng cửa, ông quay trở vào Huế học lớp Thanh niên tiền tuyến (tên gọi đầy đủ là Trường võ bị thanh niên tiền tuyến). Đây là một ngôi trường tuy được thành lập bởi chính phủ Trần Trọng Kim nhưng lại do những trí thức yêu nước lãnh đạo như các ông Tạ Quang Bửu, Phan Anh. Học viên của trường nhiều người sau này trở thành Bộ trưởng rồi tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam (xem bài viết về Trung tướng Cao Văn Khánh-vị tướng tham mưu). Từ một thanh niên yêu nước, được giác ngộ ông tham gia vào tổ chức Việt Minh bí mật trong lớp học.

Trong không khí cách mạng tháng Tám của cả nước, ngày 20/8/1945 ông được ông Trần Hữu Dực khi đó là Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế giao cho lá cờ đỏ sao vàng và nhiệm vụ treo nó lên cột cờ trước Ngọ Môn thay cho lá cờ ba que cung quẻ ly của triều đình nhà Nguyễn cùng với các ông Lâm Kèn (Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm), Nguyễn Thế Lương (Thiếu tướng Cao Pha). Sau đó, ông được chỉ định làm Phân đội trưởng Phân đội 1 (gồm 36 người) của Giải phóng quân, trấn giữ tại cửa Thuận An. Tại đây, ông đã chỉ huy bao vây chiếc tàu đầu tiên của Pháp định quay lại chiếm Huế, bắt sống một số tên trong đó có tên quan ba là Đại đội trưởng thuộc Trung đoàn do Tướng Alessandri chỉ huy…

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông là: Chỉ huy trưởng mặt trận đường số 9 (Hạ Lào 1945). Chỉ huy mặt trận đường số 7(Thượng Lào 1946). Sau đó, ông được điều ra Việt Bắc làm lãnh đạo Ban nghiên cứu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu rồi Trung đoàn trưởng E174 là một trong 2 Trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam(Đại tướng Chu Huy Mân thời đó làm chính uỷ) tham gia các chiến dịch Biên Giới ( 1950 ), chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Hoà Bình, phá huỷ căn cứ đồng bằng Bắc bộ của quân Pháp (1952)...và đặc biệt là chỉ huy trưởng mặt trận đường số 4 oai danh lừng lẫy đến nỗi được nhân dân Cao-Bắc-Lạng tụng xưng là Đệ tứ quốc lộ Đại Vương và quân đội Pháp khiếp hãi gọi ông là : Con hùm xám đường số 4.

Sau năm 1954, ông về giảng dạy ở Trường sĩ quan lục quân. Năm 1960 ông được điều sang làm Cục phó Cục Vật liệu xây dựng, rồi Cục phó Cục Xây dựng cơ bản thuộc ngành Thủy sản đến khi nghỉ hưu.

Vào tuổi 65 ông bắt đầu đến với sự nghiệp văn chương. Sau gần 10 năm chuẩn bị công phu, tác phẩm đầu tay “Đường số 4 rực lửa” được độc giả trong, ngoài nước đón nhận biết bao trân trọng, Bộ văn hóa - Thông tin trao giải thưởng văn học toàn quốc hạng A vào năm 1999.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Hai, 2011, 02:07:39 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #113 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2008, 02:23:27 am »


Thiếu tướng Trần Công Mân (1925(?)-3.1998), nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội Nhân dân, Chính ủy Trường sĩ quan Công binh, Chủ nhiệm Chính trị Cục công binh.

Ông sinh ra tại làng Long Trì, xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình cha là nhà nho, mẹ làm ruộng. Ông nội ông là anh em ruột với ông Trần Cung (tức Đội Cung), người lãnh đạo cuộc binh biến Đô Lương. 1939-1943, ông theo học trung học phổ thông tại trường tư thục Chính Hóa, thành phố Vinh (Nghệ An).

Lớn lên gặp đúng lúc Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông lập tức tham gia  lực lượng Giải phóng quân địa phương. Tới tháng 11/1945, được phân công phụ trách chính trị trong lực lượng Giải phóng quân Hà Tĩnh. Tháng 12/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương...

Tháng 12/1947, Trần Công Mân được cử làm chính trị viên Tiểu đoàn 675, thuộc Sư đoàn 351. Tiếp theo, sau một thời gian giữ cương vị Quyền Tỉnh đội trưởng tỉnh Thanh Hóa, tới tháng 6/1952, ông được cử làm Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 675 thuộc Sư đoàn 351. Rồi tới tháng 3/1953, ông được phân công phụ trách chính trị Trung đoàn 151 thuộc Sư đoàn 351. Đơn vị công binh của ông từng tham gia mở đường thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lập thành tích xuất sắc. Rồi ông trở thành Chủ nhiệm chính trị Cục Công binh Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 11/1955. Tháng 9/1959, ông làm Chính ủy Trường Sĩ quan công binh...

Tháng 11.1964, ông được cử sang làm Phó Tổng biên tập Báo Quân đội Nhân dân. 1989, ông rời báo QDND ở cương vị Tổng biên tập và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Hội nhà Báo Việt Nam.

Thiếu tướng Trần Công Mân là một trong những cây bút chính luận xuất sắc nhất của báo chí Việt Nam từ trước đến nay. Ông viết nhanh, viết khỏe, có chiều sâu lí luận sắc sảo và bám sát với thực tế đời sống chính trị, xã hội của đất nước. Cùng với nhà báo Trần Đình Bá làm lên một thời kì hoàng kim nhất của Báo Quân đội Nhân dân từ trước tới nay.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Hai, 2011, 02:09:24 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #114 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2008, 02:26:50 am »


Hoàng Đình Giong (Văn Tư, Vũ Đức; 1.6.1904-1947), Liệt sĩ, nguyên: Khu trưởng Khu 9, Tư lệnh Khu 6, Chỉ huy trưởng Đoàn quân Nam tiến. 

Huân chương Hồ Chí Minh


Ông sinh ngày 01/6/1904, tại làng Nà Toàn, xã Đề Thám, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng (nay thuộc Thị xã Cao Bằng). Những năm 1924-1926, ở Cao Bằng đã bắt đầu xuất hiện các hội đánh Tây ở Hoà An, sau đó lan sang Hà Quảng, điều này ảnh sớm ảnh hướng đến tư tưởng của Hoàng Đình Giong, khi đó đang theo học tại Trường Bách nghệ ở Hà Nội.

Ông đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của thanh niên trí thức tham gia phong trào bãi khoá tại Hà Nội và truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Sau khi bị thực dân Pháp đuổi học, ông trở về quê hoạt động cách mạng và cùng một số đồng chí của mình tổ chức tuyên truyền tư tưởng yêu nước tại một số huyện trong tỉnh.

Năm 1927, ông quyết định ra nước ngoài hoạt động. Năm 1928, ông được kết nạp vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau khi tiếp thu con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá về nước, Hoàng Đình Giong ra sức xây dựng cơ sở Hội ở Cao Bằng, tuyên truyền đường lối cách mạng đến với nhân dân các dân tộc trong tỉnh và dẫn dắt phong trào cách mạng Cao Bằng phát triển.

Tháng 12/1929, ông được kết nạp vào Đảng và được bầu làm Bí thư Chi bộ Long Châu gồm 3 người Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn. Năm 1930, ông cử ông Hoàng Văn Nọn về Cao Bằng phát triển Đảng. Ngày 01/4/1930 tại Khe suối Nặm Lìn thuộc xã Hoàng Tung (huyện Hoà An), ông Nọn tổ chức kết nạp 2 ông Nông Văn Đô và Lê Đoàn Chu vào Đảng và thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng do Hoàng Văn Nọn làm bí thư. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hoàng Đình Giong cơ sở Đảng, phong trào cách mạng ở Cao Bằng tiếp tục phát triển. Nhận thức rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của báo chí trong sự nghiệp cách mạng, ông đã chỉ đạo Đảng bộ Cao Bằng xuất bản tờ báo “Cờ đỏ” để tuyên truyền cách mạng, giác ngộ quần chúng.

Thực hiện sự phân công của Ban lãnh đạo Hải Ngoại, đầu năm 1934, Hoàng Đình Giong được giao nhiệm vụ, bí mật xuống Hải Phòng, Hòn Gai (tỉnh Quảng Ninh ngày nay) hoạt động với cương vị là uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ, góp phần khôi phục, củng cố lại tổ chức Đảng và quần chúng, chắp nối liên lạc giữa Đảng bộ Hải Phòng với Xứ uỷ. Với những hoạt động liên tục trong những năm 1932-1935, Hoàng Đình Giong đã có nhiều đóng góp trong việc chắp nối các mối liên lạc với các cơ sở Đảng ở Bắc kỳ.

Với những đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, tại Đại hội Đảng lần thứ nhất (họp tại Ma Cao, Trung Quốc) cuối tháng 3 năm 1935, Hoàng Đình Giong được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1936, ông được phân công trở lại vùng Duyên Hải (Hải Phòng, Quảng Ninh) để hoạt động nhằm củng cố đường dây liên lạc từ nước ngoài về nước chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng.

Tại Hải Phòng, ông bị thực dân Pháp theo dõi và bị bắt ngày 04/02/1936, đưa về Cao Bằng xét xử và kết án 5 năm tù và ông lần lượt bị giam cầm ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Bắc Mê, sau đó Hoàng Đình Giong cùng 8 đồng chí của ông bị đày đi đảo Nô-si-la-va ở Mađagatsca (một thuộc địa của Pháp ở châu Phi). Sau khi trở về Ấn Độ, ông đã cùng các ông Lê Giản, Dương Công Hoạt và Hoàng Hữu Nam được không quân Anh chở máy bay nhảy dù xuống Cao Bằng. Trở về Tổ quốc, Hoàng Đình Giong tích cực hoạt động và có nhiều đóng góp trong tổ chức lãnh đạo lực lượng vũ trang Cao Bằng tiến tới thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945.

Thực hiện chủ trương tập trung sức người, sức của chi viện cho miền Nam Hoàng Đình Giong và chi đội giải phóng quân của tỉnh Cao Bằng đã lên đường vào Nam cùng đồng bào Nam bộ kháng chiến chống thực dân Pháp. Hoàng Đình Giong được cử giữ chức chỉ huy trưởng đoàn quân Nam Tiến và được đổi tên là Võ Văn Đức. Sau đó là khu trưởng khu 9. Tháng 11/1946, ông được lệnh ra Bắc, ra đến Ninh Thuận lại được Ủy ban kháng chiến miền Nam chỉ định làm Tư lệnh khu 6. Tại đây, ông đã họp hai ban chỉ huy Trung đoàn 81, 82 và cán bộ trong khu để nhận định tình hình trên chiến trường cực Nam Trung Bộ, từ đó đề ra chủ trương: Củng cố chính quyền và đoàn thể quần chúng; phát động chiến tranh du kích; vạch ra các kế hoạch hỗ trợ tổ chức giao thông liên lạc, thông tin thông suốt; …công tác đang tiến triển thì vào khoảng giữa tháng 5/1947, Pháp tấn công bất ngờ vào chiến khu 7, ông đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hi sinh.


Hoàng Đình Giong là một trong những người cộng sản có công trong việc chèo lái con thuyền cách mạng của Việt Nam ngay từ khi Đảng CS Việt Nam chưa được thành lập, người cộng sản đầu tiên của Cao Bằng và là một trong những nhà chỉ huy quân sự của Đảng từ những ngày tiền khởi nghĩa và trong thời điểm sơ khai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #115 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2008, 02:49:33 am »


Trung tướng Trần Độ (Tạ Ngọc Phách; 23.09.1923-09.08.2002), nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Chính ủy kiêm Phó Bí thư Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính ủy Quân khu Tả Ngạn, Chính ủy Mặt trận Hà Nội (1946).

Thiếu tướng (1958), Trng tướng (1974).

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất...


Ông quê ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trong một gia đình công chức thời Pháp. Năm 1939, ông tham gia làm báo "Người Mới" ở Hà Nội. Cùng năm này ông bị thực dân Pháp bắt nhưng không có đủ chứng cứ nên ông được thả. Năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1941, ông lại bị bắt và bị kết án 15 năm tù giam lần lượt tại Hỏa Lò (Hà Nội) rồi Sơn La. Năm 1943, ông trốn thoát thành công trên đường giải ra Côn Đảo và tiếp tục hoạt động cách mang. Trong cách mạng tháng 8, ông lãnh đạo giành chính quyền ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12.1946), ông là Chính ủy Mặt trận Hà Nội. Năm 1950, ông làm chính ủy Trung đoàn Sông Lô, rồi Chính ủy Đại đoàn 312. Năm 1955, ông là Chính ủy Quân khu Tả ngạn. Năm 1958 ông được phong quân hàm Thiếu tướng.

Bước vào thời kì kháng chiến chống Mỹ, cuối năm 1964, với bí danh Chín Vinh ông vào Nam chiến đấu và giữ chức Phó Chính ủy và Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 3 năm 1974, ông được phong hàm Trung tướng.

Đất nước hoàn toàn thống nhất, từ năm 1974 đến năm 1976, ông giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Sau đó chuyển ngành giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách văn hóa văn nghệ. Khi Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương được thành lập (1981), ông giữ chức Trưởng Ban kiêm Thứ trưởng Bộ Văn hóa.

Ông còn làm Phó Chủ tịch Quốc hội khóa 7, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa và giáo dục của Quốc hội, ủy viên Hội đồng Nhà nước (1989-1992). Ông cũng là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 3 (dự khuyết từ năm 1960 đến năm 1972), 4, 5, 6 (1960-1991).

Do những chỉ trích đường lối của Đảng, ông bị khai trừ Đảng, mất quân hàm tướng. Gần đây, cuốn sách về ông do nhà văn Võ Bá Cường được nhà xuất bản Quân đội Nhân dân phát hành tại Việt Nam.

Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #116 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2008, 03:05:52 am »


Thượng tướng Chu Văn Tấn (bí danh: Tân Hồng; 1910-1984), nguyên: Chính ủy kiêm Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc; Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân sự, Bộ trưởng Quốc phòng, Chỉ huy Chiến khu Hoàng Hoa Thám.

Thiếu tướng (1948), Thượng tướng (1959)

Huân chương Độc lập hạng Nhất, Quân công hạng Ba, Chiến thắng hạng Nhất, Kháng chiến hạng Nhất...


Ông người dân tộc Nùng, quê xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Lúc còn trẻ, một thời gian ông đi lính cho Pháp. Năm 1934, giác ngộ cách mạng tham gia chỉ đạo chiến tranh du kích ở Tràng Xá, Võ Nhai, Bắc Sơn. Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 2 năm 1941, ông là Xứ ủy viên Bắc Kỳ, tham gia thành lập và chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn. Tháng 9 năm 1941, đội Du kích phát triển thành 2 đội, ông là Trung đội trưởng Cứu quốc quân 2. Năm 1944, ông chỉ huy Cứu quốc quân 2 cùng Chiến khu Hoàng Hoa Thám.

Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Ban lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ lâm thời từ cuối tháng 8 năm 1945 đến ngày 2 tháng 3 năm 1946. Sau đó ông được cử là phái viên của chính phủ đi kiểm tra Khu 4.

Năm 1948, ông làm Khu trưởng Khu 4 rồi Chiến khu 1, Bí thư khu ủy. Cùng năm này, ông được phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt phong tướng đầu tiên của Quân đội. Từ năm 1949 đến năm 1954, ông làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc. Từ năm 1954 đến cuối năm 1956, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư quân khu ủy Liên khu Việt Bắc.

Từ năm 1957 đến cuối năm 1975, ông làm Chính ủy, Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Năm 1959, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng.

Năm 1976, ông được bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Chiến tranh biên giới Việt Trung nổ ra. Ủy viên Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan chạy sang Trung Quốc còn ông bị bắt cách hết chức vụ và quân hàm và bị quản chế tại gia cho đến khi mất.

Ông được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa III đến khóa VI; Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông cũng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa II và III; đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Sáu, 2008, 03:16:06 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #117 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2008, 06:05:51 am »


Phạm Thái Bường (1915-1974), nguyên Ủy viên thường trực Trung ương cục miền Nam phụ trách Quân sự, Trưởng ban An ninh Trung ương cục.

Huân chương Hồ Chí Minh...


Phạm Thái Bường, bí danh Lê Thành Nhân, sinh năm 1915 tại xã Mỹ Cẩm, huyện Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Thân sinh ông là Phạm Thời, làm phu lục lộ sở Trường tiền ở Trà Vinh. Do hoàn cảnh kinh tế gia đình, nên năm 15 tuổi, ông đã phải đi làm nghề phụ hồ để nuôi thân. Vốn sáng dạ và siêng năng lao động, học giỏi, nên sau một thời gian ngắn, ông đã trở thành thợ hồ có tay nghề cao tương đối vững.

Năm 1937, phong trào Đông Dương đại hội từ các đô thị lớn đã dội đến quê ông. Nhiều cuộc biểu tình, diễn thuyết kêu đòi tự do, dân chủ, đòi cải thiện đời sống do những người cộng sản ở Trà Vinh chủ trương, đã lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, trong số đó có anh thanh niên thợ hồ Phạm Thái Bường. Dần dần được giác ngộ, năm 1938, ông tham gia vào đội Hội Ái hữu và hoạt động tích cực trong giới thợ thủ công ở địa phương. Tháng 6-1938, Phạm Thái Bường được kết nạp vào ĐCSĐD. Đầu năm 1939, là ủy viên Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Trà Vinh.

Đầu năm 1940, được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh. Trong khi đó, Bến Tre - tỉnh có cùng ranh giới chung với Trà Vinh là con sông Cổ Chiên – qua những đợt khủng bố của thực dân, phần lớn cơ sở đảng ở đây bị đánh phá tan rã, Bí thư Tỉnh ủy cùng nhiều cấp ủy viên tỉnh và huyện bị sa vào lưới mật thám Pháp. Trước tình hình đó, XUNK đã điều Phạm Thái Bường sang làm Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Cùng với những đồng chí còn lại sau đợt khủng bố, ông đã bắt tay củng cố phong trào, gây dựng lại cơ sở Đảng ở các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Ba Tri…

Đến khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra (1940), Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy hưởng ứng tích cực lệnh của XUNK ban ra. Cuộc khởi nghĩa thất bại, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào. Phạm Thái Bường và hầu hết các thành viên trong Tỉnh ủy Bến Tre lần lượt bị bắt. Trong nhà lao đế quốc, bị tra tấn chết đi sống lại nhiều lần, Phạm Thái Bường vẫn giữ vững khí tiết, không khai báo một điều gì làm phương hại đến phong trào. Tòa án của chính quyền thực dân kết án tù 10 năm và đày ra Côn Đảo.

Khi Tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi, chính quyền cách mạng cử ngay một phái đoàn đưa phương tiện ra Côn Đảo rước ông cùng các tù nhân bị giam giữ về đất liền. Phạm Thái Bường về trong chuyến tàu đầu tiên. Vừa về đến tỉnh nhà, người còn xanh xao gầy yếu, nhưng vì thấy tình hình khẩn trương, ông lao ngay vào công việc. Với tư cách là Phó bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh, Phạm Thái Bường đã cùng với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, bắt tay vào việc xây dựng chính quyền mới, củng cố Mặt trận đoàn kết dân tộc, đồng thời tổ chức những lớp huấn luyện quân sự, chính trị cấp tốc để đối phó với âm mưu lấn chiếm của thực dân.

Ngày 23-9-1945, giặc Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ. Trong thời kỳ làm Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh (1946 – 1948), Phạm Thái Bường có một tầm nhìn rộng, thoáng, đã có những chủ trương và đối sách đúng đắn như củng cố khối đoàn kết dân tộc (Trà Vinh có rất đông đồng bào dân tộc Khmer và nhiều tôn giáo phức tạp), thực hiện chính sách ruộng đất của cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương… do đó đã đưa phong trào kháng chiến ở Trà Vinh sớm đi vào thế ổn định, chính quyền cách mạng từng bước được củng cố. Năm 1948, được bầu vào khu ủy Khu 8, được phân công phụ trách 3 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre. Cũng tháng 6 năm này, được Khu ủy chỉ định quyền Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre.

Tháng 10 – 1949, Phạm Thái Bường được cử bổ sung vào Ban thường vụ khu ủy Khu 8, phụ trách công tác tổ chức cán bộ. Đầu năm 1953, được cử đi dự lớp chỉnh huấn của Trung ương mở tại Liên khu 5. Sau hiệp định Genève (7 – 1954), ông dẫn đầu phái đoàn của Trung ương đi truyền đạt hiệp định đình chiến ở các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.

Từ năm 1954 đến năm 1959, là ủy viên XUNB, kiêm Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây.

Trong Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết BCHTƯĐCS, có chân trong TƯCMN.

Năm 1963, phụ trách công tác tiếp nhận vũ khí chi viện bằng đường biển cho chiến trường Nam Bộ. Cuối năm 1965, là ủy viên thường vụ TƯ Cục miền Nam. Năm 1969, làm Bí thư Khu ủy 9.

Tháng 3 – 1972, là ủy viên chính thức BCHTƯĐCS Việt Nam. Trong một cơn bệnh hiểm nghèo, ông đã từ trần ngày 29-1-1974 tại một vùng căn cứ kháng chiến ở khu 9.

Phạm Thái Bường đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng từ tuổi thanh xuân. Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng về lòng tận tụy với dân với nước, trước uy lực của kẻ thù, cũng như những khó khăn, gian khổ. Riêng đối với tỉnh Bến Tre, ông đã hai lần làm Bí thư Tỉnh ủy và có những đóng góp quan trọng trong việc phục hồi và xây dựng phong trào ở đây trong những lúc khó khăn.

Theo trang thông tin điện tử tỉnh Bến Tre
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #118 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 04:24:57 am »


Thiếu tướng Võ Bẩm (1915-5h55’ 5/7/2008), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Quân đội trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tư lệnh đầu tiên của Đường Trường Sơn-Đường mòn Hồ Chí Minh (Đoàn 559), Bí thư Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu, Cục trưởng Cục Quản lí Giáo dục kiêm Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tổng Tham mưu.

Huân chương Hồ Chí Minh; hai Huân chương Quân công hạng nhất, hạng nhì; Huân chương Chiến thắng hạng nhất; Huy chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.

Thượng tá (1958), Đại tá (1967 ?), Thiếu tướng (1974).


Thiếu tướng Võ Bẩm quê tại xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm trong đội Thiếu niên xã làm nhiệm vụ rải truyền đơn và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ tháng 8 năm 1934 và hoạt động tại địa phương.

Năm 1935, ông được bầu làm Bí thư Huyện ủy Sơn Tịnh, Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Đầu năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án đưa đi ''an trí'' lần lượt tại nhà tù Lao Bảo, Ban Mê Thuột rồi cuối cùng đưa về Ba Tơ. Phong trào đấu tranh của những người tù cách mạng phát triển hết sức mạnh mẽ, có ảnh hưởng đến nhân dân xung quanh vùng và cả dưới xuôi, trước tình hình đó, thực dân Pháp đưa ông về quản thúc tại xã nhà. Trở về quê, ông không ngừng gây dựng cơ sở tại địa phương, đến tháng 3/1945 tham gia tổ chức Việt Minh là thư ký Việt Minh xã, thư ký Việt Minh tổng rồi Ủy viên huyện Kim Tài tỉnh Quảng Ngãi.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, núp bóng quân Đồng minh, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Tháng 10 năm 1945, ông nhập ngũ là Chính trị viên khu Nam tỉnh Bình Định là Đảng ủy viên Tiểu đoàn Cao Thắng. Năm 1946, ông là Chính trị viên Trung đoàn 79, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn (Trung đoàn ủy), Quân khu Ủy viên.

Năm 1948, ông là Phân khu trưởng kiêm Chính ủy Phân khu phụ trách Ủy ban hành chính kháng chiến Phân khu Tây Nguyên, Bí thư Phân khu ủy, Bí thư Ban cán sự Tỉnh Kom Tum. Năm 1949, ông được cử đi học văn hóa rồi sau đó là Trưởng đoàn nhận viện trợ của Khu 5 vượt biển sang Trung quốc (năm 1950) tham gia Ban cán sự nước ngoài của Trung ương trên cương vị Ủy viên. Từ năm 1951 đến năm 1952, ông học tại trưởng Mác Lê-nin tại Thủ đô Bắc Kinh Trung Quốc. Về nước, cuối năm 1953, ông là Trưởng ban tác huấn Bộ Tư lệnh Liên khu 5.

Tháng 4.1954, ông là Chính ủy Trung đoàn 803 trực thuộc khu 5, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông tập kết ra Bắc, tháng 1.1956, ông là Đoàn trưởng Đoàn kiểm tra Công tác Chính trị, Tổng cục Chính trị. Tháng 4.1957, ông là Cục phó Cục quản lý Giáo dục Bộ Tổng tham mưu. Năm 1958, ông được cử làm Cục phó Cục nông trường Quân đội.

Ngày 5/5/1959, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương trực tiếp giao nhiệm vụ cho ông, khi đó mang quân hàm Thượng tá, thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” để nhanh chóng đưa cán bộ, bộ đội và các thứ cần thiết như vũ khí, đạn dược, thuốc men vào miền Nam theo kế hoạch của Bộ Chính trị. Nhiệm vụ của đoàn là chuyển người và đưa hàng đến bờ bắc sông Bến Hải. Nhân sự của đoàn hoàn toàn do ông quyết định.

Lúc đầu, biên chế của Đoàn chỉ có Ban Chỉ huy Đoàn Vận tải 301 và các bộ phận xây dựng kho, bao gói, sửa chữa vũ khí... tất cả gồm 500 người, ông là Đoàn trưởng kiêm Bí thư Ban Cán sự. Đầu tháng 6/1959, ông trực tiếp vào Hồ Xá – Vĩnh Linh chủ trì cuộc họp bàn cụ thể việc mở đường vào Nam với đại diện Khu 5 và Trị - Thiên. Cuộc họp quyết định đề đạt lên Bộ Chính trị cho đoàn chuyển hàng vào sâu hơn nữa-qua sông Bến Hải. Ý kiến này sau đó đã được chấp thuận. Sau đó, Đoàn 559 tổ chức ngay đội khảo sát mở tuyến do ông trực tiếp chỉ huy. Sau khi khảo sát xong, việc vận chuyển vũ khí được tiến hành gấp rút. 20 tấn vũ khí là chiến lợi phẩm trong kháng chiến chống Pháp được bao gói cẩn thận, bí mật chuyển tới khu tập kết của Đoàn 559 tại khu rừng già gần Khe Hó. Ngày 13/8/1959, chuyến hàng đầu tiên của Đoàn 301, Đoàn 559 chính thức vượt Trường Sơn. Sau 8 ngày đêm cán bộ, chiến sĩ băng rừng lội suối, đã đưa chuyến hàng đầu tiên vào đến Tà Riệp - bắc A Lưới an toàn, và được bàn giao cho Khu 6.

Ngày 12/91959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 46/QĐ-QP chính thức thành lập Đoàn 559 trực thuộc Bộ Quốc phòng, về Đảng trực thuộc Tổng Quân ủy, với nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vũ khí trang bị kỹ thuật, lương thực, thực phẩm, đưa đón cán bộ từ miền Bắc vào miền Nam và ngược lại; vận chuyển và đảm bảo hậu cần cho Đoàn chuyên gia 959 giúp bạn ở mặt trận Hạ Lào. Võ Bẩm được bổ nhiệm giữ chức Đoàn trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đoàn.

Tính đến hết năm 1959, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Đoàn, Đoàn trưởng Võ Bẩm, đã chỉ huy bộ đội Đoàn 559 mang vác chuyển cho Khu 5 và Trị - Thiên được gần 2.000 khẩu súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn, hàng ngàn quân cụ thiết yếu; đưa hơn 500 cán bộ, chiến sĩ (CBCS) chủ yếu là cán bộ đại đội, trung đội theo tuyến giao liên Trường Sơn vào chiến trường. Năm sau, Đoàn trưởng Võ Bẩm đề xuất một ý kiến táo bạo là cho phép Đoàn được vận chuyển các loại súng lớn vào chiến trường.

Từ khi được chi viện, quân dân Khu 5 đã đánh thắng nhiều trận giòn giã. Kẻ thù lồng lộn đánh phá con đường vận chuyển mới hình thành. Chúng mở hai đợt chiến dịch “Hoành Sơn” nhằm chia cắt, xóa sổ tuyến giao liên chiến lược. Trước tình thế nghiêm trọng này, không thể vận chuyển trên tuyến đường cũ, Chỉ huy Đoàn 559 quyết định mở tuyến đường mới. Nhiều đoàn được cử đi khảo sát soi đường ở tuyến đông Trường Sơn nhưng không có kết quả. Với cương vị là Đoàn trưởng, Võ Bẩm đã cùng CBCS trong đoàn nghiên cứu giải quyết tình thế khó khăn này.

Tháng 8/1960, Đoàn trưởng Võ Bẩm vào làng Mít trực tiếp chỉ đạo tổ chức lực lượng khảo sát đường mới dọc tuyến biên giới Việt – Lào, vừa tìm đường mới vừa gây dựng cơ sở, vừa cố gắng khôi phục lại đường cũ và áp dụng những hình thức chiến thuật vận chuyển mới. Ngay sau khi Đường Trường Sơn đi vào hoạt động ổn định, ông cùng đoàn mở một tuyến đường chi viện trên biển cho miền Nam. Kế hoạch này nhanh chóng được Bộ Chính trị thông qua và giao cho ông tuyển chọn những cán bộ chiến sĩ khu 5 tập kết thành lập đơn vị, ngụy trang là "đoàn đánh cá". Đến đầu nǎm 1960, "tập đoàn đánh cá" này bắt đầu đánh cá để thǎm dò và thực tập ở vùng biển cửa Sông Gianh. Đây là tiền thân của những đoàn tàu không số, của Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.

Đến tháng 3/1961, tổ khảo sát mới bắt được liên lạc với đại diện Liên khu ủy 5 ở vùng Chun trên dãy Trường Sơn để cùng phối hợp làm nhiệm vụ. Đến đầu tháng 5/1961, một tuyến đường giao liên hành quân mới được hình thành-Tây Trường Sơn bên lãnh thổ Lào là vùng đất mà lâu nay ta giúp Lào xây dựng cơ sở, bắt đầu từ Vít Thù Lù (cao điểm 592), chạy ngang qua động Vàng Vàng, vượt biên giới sang bản Tà Ha (cao điểm 1034) thuộc đất bạn, vượt sông Sê Pôn (tại khu vực bản Keng) qua Sa Đi, Mường Noòng vào tới La Hạp. Nhờ có tuyến đường mới này, ta có những thuận lợi to lớn, việc chi viện miền Nam có điều kiện để mở rộng quy mô, đồng thời phòng tránh được sự phá hoại của địch, pháo lớn bắt đầu được đưa vào chiến trường.

Ngoài tuyến đường tây Trường Sơn đặc biệt quan trọng này, từ thế độc tuyến, Đoàn 559, dưới sự chỉ huy tài tình của Đoàn trưởng Võ Bẩm còn mở thêm một số tuyến đường mới như một số đoạn của tuyến giao liên tây Trường Sơn phát triển thành đường 16 - một tuyến trục ngang; đường 129 dài gần 200km, từ Lằng Khằng (đường số 12) băng qua nhiều cánh rừng, sông suối như sông Sê Băng Hiêng, Sê Băng Phai... vào đến Pác Pha Năng, nối thông với đường 9 ở Mường Phìn.

Những năm sau này, nhiều tuyến đường khác còn được mở hoặc sửa chữa, nâng cấp. Từ đơn thuần là đường gùi, thồ nội địa và dọc biên giới, Đoàn đã được trang bị 6 xe Gát 69, 2 xe Gát 51, 16 xe Gát 63 và hơn 600 xe đạp thồ... Lực lượng vận chuyển không chỉ phòng tránh địch đánh phá, mà còn được trang bị vũ khí để “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”. Đồng thời, từ chỗ phải “giấu dân”, Đoàn đã tiến tới tranh thủ và gây dựng cơ sở trong nhân dân. Đặc biệt, ta còn dùng cả máy bay vận chuyển vũ khí đến sân bay Tà Khống (cách Sê Pôn khoảng 5km), hoặc thả dù gạo xuống đường 129 mới mở.

Trước sự phát triển nhanh chóng của tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tập trung đánh phá hết sức ác liệt: hàng trăm lượt máy bay B52, hàng ngàn lượt máy bay phản lực ném bom, rải chất độc hóa học đã được huy động. Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương ra nghị quyết tăng cường tổ chức và nhiệm vụ của Đoàn 559 tương đương cấp Quân khu. Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ được điều vào làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559; Võ Bẩm được bổ nhiệm giữ chức Phó tư lệnh. Bộ Chính trị quyết định mở đường 20 Quyết Thắng, xuất phát từ Phong Nha (Quảng Bình) vượt qua dốc U Bò, cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phù La Nhích sang đến Lùm Bùm (tây Trường Sơn, thuộc địa phận nước bạn Lào). Phó tư lệnh Võ Bẩm đã trực tiếp trình bày phương án chọn tuyến cũng như giải pháp thi công với ông Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất BCH TW Đảng và được Bí thư thứ nhất nhất trí cao.

Sau sự kiện mở đường 20 Quyết Thắng, năm 1966, Võ Bẩm được lệnh rút ra Hà Nội để chữa bệnh vì những năm tháng lăn lộn trên đường Trường Sơn đã khiến sức khỏe ông suy giảm. Sau khi chữa bệnh ở Trung Quốc, trở về nước, ông được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng bổ nhiệm làm Chính ủy Đoàn 959, chuyên gia quân sự Trung - Hạ Lào, sau đó làm Cục trưởng Cục Quản lý giáo dục (11.1967), Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Tổng tham mưu, kiêm Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tổng tham mưu (1969), Trưởng ban căn cứ Bộ quốc phòng. Tháng 8.1971, ông được bổ nhiệm làm Phó tổng Thanh tra quân đội, năm 1974, được phong quân hàm Thiếu tướng. Năm 1980, ông về nghỉ hưu.

Dựa theo Báo Công an Nhân dân online.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:37:51 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #119 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2008, 06:51:04 pm »


Thượng tá Nguyễn Quốc Trị (1921-1967), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng Trường Quân chính Quân khu 4, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô (E102) Đại đoàn Quân tiên phong (F308). Ông là một trong 5 anh hùng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (phong tặng 19/05/1952) và là người có vinh dự kéo lá cờ Tổ quốc trong buổi lễ chào mừng ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954). Tên của ông được đặt cho một đường phố ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Huân chương Quân công hạng Ba, 2 Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất


Thượng tá Nguyễn Quốc Trị quê tại xã Phương Ky, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình có truyền thống yêu nước thuộc dòng họ Nguyễn Quốc.

Ông sớm giác ngộ và tham gia cách mạng ở địa phương. Năm 1930-1931, thời điểm của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, vừa trăn trâu ông vừa tham gia giải truyền đơn tuyên truyền cho cách mạng. Năm 1940, ông gầy ốm mà vẫn bị thực dân Pháp bắt đi phu làm đường trên mạn Cửa Rào, Mường Xén rồi sang tận bên Lào. Vừa cực, vừa căm, ông đã thẳng thừng chống lệnh giặc Pháp nên phải chịu án tù khổ sai khi mới vừa tròn 19 tuổi.  

Ở trong tù, Nguyễn Quốc Trị vận động đấu tranh giúp đỡ anh em mọi mặt về học tập, ăn ở và vận động mọi người tìm cách phá ngục. Sau khi, Nhật lật đổ Pháp, thời cơ đến, Nguyễn Quốc Trị cùng anh em phá ngục, xung phong vào đội thanh niên xung phong của xã tiên phong chống Nhật. Trong trận tham gia đánh Nhật đầu tiên, ông đã cùng tiểu đội diệt được 10 tên, đốt cháy 5 xe.

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông tham gia bộ đội chủ lực Liên khu 4. Cuối năm 1946 đầu năm 1947, ông đã tham dự nhiều trận đánh ở Vinh, Huế, Đông Hà... cùng đồng đội diệt hàng trăm tên giặc, bắt sống nhiều tên, bản thân ông đã diệt 19 tên Pháp và 2 tên Nhật. Khi Đại đoàn Quân tiên phong được thành lập, ông được điều về chiến đấu trong đội hình Đại đoàn, trưởng thành từ Đại đội trưởng đến Tiểu đoàn trưởng rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô. Cùng với Đại đoàn, ông đã tham gia nhiều chiến dịch quan trọng ở Bắc Bộ: Biên Giới, Hòa Bình, Trung Du... và cuối cùng là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong Chiến dịch Biên Giới 1950, sau khi hạ đồn An Châu và diệt đồn Đông Khê, ông được giao nhiệm vụ dẫn quân vượt núi cao ngăn không cho lính Sác Tông xuống kết hợp với lính Lơ Pa ở Lạng Sơn lên. Lúc này bộ đội vừa nhịn đói mấy ngày liền khi sang khỏi núi thì gặp hai cánh quân địch tiến đánh. Ông liền động viên anh em chia trung đội thành hai mũi đánh trả quyết liệt, sau đó đánh thẳng vào đại đội bảo vệ bộ tham mưu của lính Lơ Pa, bắt sống 39 tên, diệt 13 tên, rồi dẫn giải 150 tù binh về Đông Khê. Sau một loạt trận thắng tương tự như thế, Nguyễn Quốc Trị được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng biệt danh "nhanh như sóc".

Từ trận đánh đầu tiên 10/1945 cho đến Trận Tu Vũ trong Chiến dịch Hòa Bình 1952, ông đã tham gia và chỉ huy 95 trận. Trong Đại hội toàn quốc Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu ngày 19.5.1952 tại chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Quốc Trị được phong tặng danh hiệu Anh hùng quân đội lần đầu tiên cùng với ba anh hùng khác: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Ngô Gia Khảm.

Trong ngày về tiếp quản thủ đô Hà Nội ngày 7.10.1954, người ta nhắc, viết nhiều về người anh hùng quân đội nổi tiếng này với hàng trăm trận đánh quyết tử. Khi ấy ông đã là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô thuộc Đại đoàn quân tiên phong 308. Hồi đó Trung đoàn trưởng Nguyễn Quốc Trị được giao nhiệm vụ dẫn đơn vị tiền trạm từ Phùng về Cầu Giấy rồi tiến thẳng vào Hà Nội tiếp quản dinh Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), sau đó là cầu Long Biên; để ngày 10.10.1954, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ chỉ huy đại quân tiến thẳng vào 5 cửa ô. Đó là ngày hàng vạn người dân Hà Nội đứng chật những ngả đường quanh phố Hoàng Diệu. Trên tầng tháp cao nhất của cột cờ cổ kính, trước hàng rào danh dự gồm những anh hùng, chiến sĩ thi đua, đại biểu chiến sĩ quyết tử của Hà Nội, chính Anh hùng Nguyễn Quốc Trị là người vinh dự kéo lá cờ Tổ quốc lên cao tận chót đỉnh cột cờ Thăng Long trong lễ mừng giải phóng thủ đô.

Hoà bình lập lại trên miền Bắc, trong đợt phong Quân hàm đầu tiên của Quân đội (1958), ông được phong quân hàm Thượng tá. Một thời gian sau ông được điều về làm Hiệu trưởng Trường Quân chính Quân khu 4. Ngày 16.8.1967, thượng tá Nguyễn Quốc Trị - Hiệu trưởng trường Quân chính Quân khu 4 - đã ngã xuống đất quê trong một lần trên đường về nhà, ông ra thăm, động viên bộ đội trận địa pháo cao xạ trước làng Phượng Kỷ. Biết trước đoạn đường đang đi có bom nổ chậm nhưng "biết khi nào bom nổ mà chờ". Tình yêu những người lính Cụ Hồ trong anh trỗi dậy ở những giờ phút cực kỳ cần thiết để động viên họ trong khói lửa đạn bom có thể ập đến bất kỳ lúc nào. Vậy là ông quyết đi, đi cả vào trong tiếng nổ của bom thù để ngã xuống đất quê lam lũ.

Theo Báo lao động online.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 07:23:11 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM