Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2
Ngày giáp tí, 21 tháng chạp năm Giáp thân (27/01/1285), giặc Nguyên Mông dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan và Aric Khaya (A Lý Hải Nha) đã chia quân làm hai đường tiến công vào các cửa ải Khâu Ôn và Khâu Cấp (nay thuộc tỉnh Lạng Sơn). Một lần nữa quân dân Đại Việt đã lại đứng lên cầm vũ khí bảo vệ Tổ quốc trước vó ngựa xâm lăng của một đế quốc mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2 có thể được chia làm các giai đoạn chính sau:
+
Giai đoạn trực tiếp chặn giặc ở biên giới phía bắc: quân ta tại các quan ải vùng biên giới giao chiến với giặc. Tuy nhiên, thế giặc đang rất mạnh, chúng lần lượt chiếm được các cửa ải địa đầu như Khâu Ôn, Khâu Cấp, Khả Ly, Nội Bàng, Chi Lăng, ...
+
Giai đoạn trực tiếp chặn giặc ở Vạn Kiếp: Hưng Đạo Vương tập trung binh lực thủy bộ, cố thủ ở Vạn Kiếp để cản giặc. Ngày mùng 6 tháng giêng năm Ất dậu (11/02/1285), quân Nguyên tiếp tục tấn công vào Vạn Kiếp. Nhận thấy chưa thể chặn đứng được thế tiến công của giặc, Hưng Đạo Vương đã rút về lập phòng tuyến ở bờ bắc sông Hồng.
+
Giai đoạn rút lui chiến lược về phủ Thiên Trường (Nam Định) và trực tiếp chặn giặc ở biên giới phía Nam (Thanh Hóa, Nghệ An): Phòng tuyến ở bờ bắc sông Hồng có tác dụng chính là cản giặc cho cuộc rút lui chiến lược của triều đình và quân dân ra khỏi kinh đô Thăng Long. Triều đình và quân chủ lực rút về Thiên Trường. Giặc chiếm được Thăng Long. Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng đã hy sinh trong một trận đánh ngăn cản sự truy đuổi của giặc tại bãi Mạn Trù, Hải Hưng. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cũng đã rút từ Yên Bái đi xuyên qua vùng các dân tộc thiểu số về hội với quân chủ lực. Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đem quân vào Nghệ An, phối hợp với các đạo quân đóng sẵn phía nam tiếp tục chặn đánh cánh quân do Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành kéo ra.
+
Giai đoạn rút quân chiến lược về các lộ phía đông giáp bờ biển (Hải Phòng, Quảng Ninh): ngày mùng 3 tháng 2 âm lịch (10/03/1285), quân ta từ Thiên Trường ngược sông Hồng giao chiến với quân Thoát Hoan tại Hà Nam. Thế giặc mạnh, quân ta không tiến lên được. Đồng thời từ cuối tháng giêng âm lịch, quân ta đã giao chiến với cánh quân của Toa Đô. Chương Hiến Hầu Trần Kiện phản bội, đem hơn 1 vạn quân hàng Toa Đô và dẫn đường cho chúng tấn công quân ta. Toa Đô chiếm được Thanh Nghệ. Trần Quang Khải tụ quân với Trần Quốc Tuấn rút về các lộ phía đông là nơi giặc chưa vươn tới được, dự định sẽ tiếp tục theo đường biển vào Thanh Hóa (vào những vùng mà cánh quân của Toa Đô đã đi qua), tránh khỏi thế bị kẹp giữa 2 gọng kìm của Toa Đô và Thoát Hoan.
+
Giai đoạn rút lui chiến lược từ các lộ phía đông theo đường biển vào Thanh Hóa: Chủ lực của Toa Đô đóng tại Trường Yên (Ninh Bình) để kiếm lương. Thoát Hoan chia quân làm nhiều nhánh tấn công vào Quảng Ninh nhằm bắt các vua Trần và diệt chủ lực của ta. Đại quân của ta đã theo đường biển rút vào Thanh Hóa (đúng như chiến lược đã vạch ra).
+
Giai đoạn phản công cắt đôi hai cánh quân Toa Đô, Thoát Hoan và giải phóng Thăng Long : Toa Đô được lệnh 1 lần nữa đánh Thanh Hóa (từ bắc vào). Nhưng lúc này, thế giặc bắt đầu suy, không còn cái khí thế như lúc ban đầu nữa. Tháng 4 năm Ất dậu (06/05 – 04/06/1285) Hưng Đạo Vương, Chiêu Minh Vương, Chiêu Văn Vương cùng các tướng lĩnh theo đường biển vượt qua các vùng bị Toa Đô chiếm đóng tấn công vào hệ thống các cứ điểm của giặc dọc sông Hồng, cắt đôi 2 cánh quân chủ lực của giặc. Sau 1 loạt các chiến thắng lớn như Hàm Tử, Tây Kết, quân ta tiến vào giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan chạy sang đóng quân ở bờ bắc sông Hồng. Đầu tháng 5 âm lịch, hai vua Trần đem quân từ Thanh Hóa ra phá vỡ toán quân địch đóng ở Trường Yên (Ninh Bình) (Đây là toán quân Toa Đô để lại giữ Trường Yên khi y đem quân vào Thanh Hóa tấn công quân ta)
+
Giai đoạn truy kích quyét sạch quân địch khỏi bờ cõi : các cánh quân của giặc bị chia cắt, không còn liên lạc được với nhau. Ngày 6 tháng 5 năm Ất dậu (10/06/1285), quân ta bắt đầu tấn công vào cánh quân của Thoát Hoan bên bờ bắc sông Hồng. Chủ lực địch bỏ chạy về phương bắc và liên tiếp bị chặn đánh. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản đã hy sinh khi tham gia chặn đánh giặc bên dòng sông Như Nguyệt. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, Lý Hằng bị trút tên thuốc độc bỏ mạng. Cánh quân của Toa Đô, Ô Mã Nhi kéo từ Thanh Hóa ra bị chặn đánh ở Tây Kết (Hưng Yên), Toa Đô bị mất đầu, Ô Mã Nhi đi thuyền nhẹ trốn thoát ra biển. Ngày 6 tháng 6 năm Ất dậu (09/07/1285), hai vua Trần cùng quân dân đã trở về Thăng Long, cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi.
Việc chia thành các giai đoạn như trên chủ yếu dựa trên sự tiến, lui, phản công,... của quân chủ lực nhà Trần. Nhưng cũng phải lưu ý rằng quân Nguyên chưa có lúc nào bình định được các vùng đất mà chúng đã chiếm. Quân dân Đại Việt cùng với các đạo quân chính quy tác chiến độc lập (không tụ cùng với đại quân) luôn quấy rối, kìm chân địch ở những nơi chúng tạm chiếm được. Những đạo quân này cùng với những cánh dân binh địa phương cũng góp phần quan trọng trong những giai đoạn chủ lực của ta phản công chia cắt và quyét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.
====
Tài liệu tham khảo:
Hà Văn Tân, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, NXB Khoa Học Xã Hội, 1975, in lần thứ 4HOÀI VĂN HẦU TRẦN QUỐC TOẢN
“Phá cường địch, báo hoàng ân” - trong hơn 700 năm qua, 6 chữ vàng đó vẫn luôn vang lên như một minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam, cho khí phách hào hùng của một giai đoạn cả đất nước cùng chung sức đứng lên đương đầu với vó ngựa hung hãn của đế quốc Nguyên Mông. Người thiếu niên anh hùng đã giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng đó là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản.
Qua các tài liệu, đọc trên mạng, trên vô tuyến và các sách xuất bản trong nước, có thể thấy thân thế và sự nghiệp của Trần Quốc Toản như sau:
+ Năm sinh : 1267
+ Dòng dõi: thuộc chi họ của Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt (Trần Bà Liệt là em vua Trần Thái Tông)
+ Sự nghiệp: Trong hội nghị Bình Than (1282), Quốc Toản do tuổi còn nhỏ (15 tuổi) mà không được tham dự. Uất ức vì không được tham dự việc nước, Hoài Văn đã bóp nát quả cam cầm trong tay mà không biết. Trở về, Quốc Toản lập một đội quân gồm hơn 1 nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, rèn luyện chờ ngày giết giặc. Trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1285) Hoài Văn Hầu đã tham gia các trận đánh nổi tiếng: trận Tây Kết lần thứ nhất, trận đánh ở bến Chương Dương, trận đánh giải phóng Thăng Long
+ Hy sinh: Trần Quốc Toản hy sinh trong trận chặn đánh đám quân của Thoát Hoan khi chúng đang rút chạy bên bờ sông Như Nguyệt (sông Cầu) vào khoảng cuối tháng 6 năm 1285 (âm lịch). Quốc Toản đã được vua Nhân Tông thân làm văn tế và truy tặng tước vương.
====
Các thông tin về sự nghiệp và sự hy sinh của Trần Quốc Toản đã được các tác giả Hà Văn Tân và Phạm Thị Tâm trình bày và phân tích khá chi tiết trong tác phẩm : “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII”.
Về năm sinh của Trần Quốc Toản, tôi mới chỉ biết đến 1 tài liệu, đó là Wikipedia tiếng Việt:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Qu%E1%BB%91c_To%E1%BA%A3nVề dòng dõi của Trần Quốc Toản, tôi nhớ rằng đã xem trên 1 chương trình vô tuyến. Lý do chính để đưa ra kết luận Quốc Toản thuộc chi họ của Trần Bà Liệt là sự giống nhau của chữ “Hoài” trong tước hiệu: Hoài Đức, Hoài Văn.
Tôi mới chỉ tìm được 1 số thông tin trong các tài liệu như trên, rất mong được trao đổi thêm cùng các bạn.