Nguồn tốc độ bắn của AK à
Cậu đi lính đi rồi biết, đó là những lý thuyết quân sự đầu tiên cậu sẽ học trong lính, liền sau đợt huấn luyện đội ngũ.
Còn tốc độ bắn AR-15: đó là tốc độ bắn khi cậu gữ cò, vì nó chỉ có một tốc độ bắn nên đó là tốc độ bắn luôn của khẩu súng này.
Tớ không muốn tranh luận với những người chứ biết những điểm cơ bản trên, nhưng lại hay tán dóc.
Quay trở lại với AK.
Nhìn lại súng.
Súng trở thành vũ khí chính cả bộ binh vào cuối thế kỷ 18. Lúc đó, người ta thường sử dụng hai loại súng, một là tổ tiên của súng ngắn, còn gọi là súng kỵ sỹ, hai là súng dài. Lúc đó, súng cầm tay đều là súng hỏa mai, kích nổ đá lửa, nhồi miệng nòng. Khẩu súng dài (long gun) trở thành tổ tiên của
súng trường. Dần dần, người ta gọi
súng trường chỉ vũ khí chính của bộ binh. Đến cuối thế kỷ 19,
súng trường bắn đạn có vỏ hình thành. Lúc dó, đạn không nhồi từ miệng cho phép làm nòng xoắn. Người ta gọi tắt
rifle long gun thành
rifle, dần thành quen.
Cuối thế kỷ 19, hình thành những khái niệm về
súng trường.
Súng trường trang bị. Trên thị trường dĩ nhiên là có nhiều loại
súng trường, nhưng quân đội lại thường chỉ trang bị một loại duy nhất, thống nhất là sức mạnh mà. Loại súng may mắn được chấp nhận đó gọi là
súng trường trang bị, hay là
súng trường phục vụ (service rifle).
Súng trường hạng nặng, hạng nhẹ và súng cạc bin. Người ta thường chế ra hai loại súng trường, một loại nặng hơn, dùng loại đạn to hơn loại kia, gọi là
súng trường hạng nặng. Tất nhiên là có
súng trường hạng nhẹ, ví như Mosin (7,62x54R) là súng trường hạng nặng và SKS(7,62x39) là súng trường hạng nhẹ. Ngoài hai loại súng đó ra,
súng cạc bin là súng bắn cùng đạn
súng trường nhưng nòng ngắn, gọn nhẹ, yếu hơn.
Súng trường chiến đấu. Lúc đó, cuộc chiến đấu của hai chiến sỹ bộ binh không khác gì hai xe tăng bi giờ, cảnh này vẫn còn được dựng phim. Hai bên nạp đạn, ngắm cẩn thận, nã một phát. Loại súng trường tầm xa hạng nặng được sử dụng như vậy nên gọi là
súng trường chiến đấu (battle rifle). Bộ binh cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thế chiến 2 lấy
súng trường chiến đấu hạng nặng đó làm vũ khí chính, hầu hết các súng trường phục vụ ở châu Âu như vậy. Tuy nhiên, vai trò của gọn nhẹ cũng sớm được thể hiện trên khẩu cạc bin, nhưng chưa ưu thế.
Súng trường phát một. Cuối thế kỷ 19 xuất hiện khẩu súng trường có hộp đạn. Những súng dùng hộp đạn ban đầu có khóa nòng xoay, mỗi lần bắn xạ thủ phải kéo khóa nòng nhả vỏ nạp đạn mới, lever-action, lên cò tay. Súng này gọi là súng trường phát một. Winchester là khẩu súng phát một rất sớm, nhưng kiểu băng đạn ống (pump-action) sớm được thay thế bằng băng cọc, Mosin (Nga 1891) là một trong những súng trường chiến đấu đầu tiên như thế. Khẩu súng này thành công cũng chỉ kém AK một chút, thời gian phục vụ lâu, phổ biến. Đến năm 1904, đã có 3,8 triệu khẩu được sản xuất ở Nga và Pháp, Mỹ. Khẩu Mosin còn được sản xuất dài dài sau đó, kể cả có và không license, dùng rộng rãi cho đến Việt Nam đánh Mỹ, còn thấy khá nhiều ở Chechen, Iraq. Không khẩu súng trường phát một nào thành công như vậy. Súng trường phục vụ cuối tk19 đến đầu thế chiến 2 đều là súng trường phát một hạng nặng.
Súng trường tự động là súng trường dùng năng lượng pháp bắn thực hiện động tác trên. Bán tự động là sau mỗi phát bắn, máy súng khóa cò lại, chờ lần bóp cò tiếp, mỗi lần bóp cò chỉ bắn một phát. Tự động đủ là súng bắn liên thanh.
Súng trường bán tự động trở thành súng trường phục vụ từ gần thế chiến 2, chủ yếu do giá thành nên phổ biến chậm,
Fedorov Avtomat là một trong những khẩu đầu tiên thai nghén từ trước thế chiến 1, nặng nề, khó kiếm đạn. Đồng thời, khi súng trường hạng nặng tự động chưa phổ biến thi. Bán tự động cơ cơ cấu cò phức tạp hơn tự động toàn phần, do phải làm thêm lẫy nhận động tác nhả cò, chứ nhả cò thì chứ bắn tiếp được. Nhưng súng tự động hoàn toàn-súng chỉ bắn liên thanh phải trả giá cho tốc độ bắn cao, các cơ cấu phải chịu được nhiệt độ cao và bên với số lượng phát bắn lớn. Vì súng liên thanh nặng, nên nó không trở thành súng chính trước khi các khó khăn về giá thành được giả quyết.
Sau thế chiến 1, ưu thế của nhẹ gọn bắn nhanh càng ngày càng thể hiện rõ. Trong thế chiến 2, những khẩu súng ngắn bắn nhanh như PPSh hay MP thể hiện ưu thế trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi xung phong. Những tình huống như thế, súng trường cồng kềnh nặng nền bắn chậm hoàn toàn thất thế. Nhưng súng ngắn bắn nhanh nhỏ yếu, tầm gần, vẫn thất thế trong phần lớn các tình huống khác. Trong khi đó, như trên đã nói, súng bắn liên thanh bằng đạn súng trường lúc đó còn nặng nề. Chẳng lẽ làm 2 súng cho một lính
? Giải pháp cần có là
súng trường tấn công assault rifle.
General purpose machine gun, súng máy đa năng, được người Đức rút từ kinh nghiệm chiến trường thế chiến 1, sau này trở thành trung liên. Đây là súng cá nhân, sức mạnh đầu đạn như súng trường, bắn được liên thanh, nhưng lại nhẹ hơn súng nhiều người dùng (đại liên). Phương án này rõ ràng là nặng nề, không đủ sức trở thành vũ khí chính.
Nhu cầu về súng trường tấn công xuất hiện từ trước Thế Chiến 2 sau chiến tranh Tây Ban Nha, nhưng nhiều khó khăn kỹ thuật và kinh tế dẫn đến chậm trễ. Hitler đã yêu cầu các nhà kỹ thuật chế MP-44, tuy nhiên, nó về bản chất vẫn là súng ngắn bắn nhanh, một khẩu súng ngắn bắn nhanh cố tiến theo hướng súng trường. Người Đức đưa ra những ý tưởng gần giống súng trường tấn công sau này, như cạc bin liên thanh (Maschinenkarabiner), nhưng không hiểu sao họ lại đi theo hướng tăng động năng đầu đạn của súng ngắn (các đời súng bão, Sturmgewehr). Kể ra, khẩu STG-45 đã gần đạt yêu cầu một súng trường tấn công, nhưng nó không kịp đi vào chiến tranh, sau này Tây Ban Nha, Thụy Sỹ, Đức hoàn thiện khẩu này đưa ra những bản CETME, Heckler & Koch G3, SIG 510 là các súng trường dùng đạn cỡ lớn 7,62x51mm NATO, MP5 là súng ngắn bắn nhanh. STG-45 tiến gần hơn so với STG-44 về hướng súng trường tấn công, nhưng vẫn là một súng máy bắn nhanh. Cải thiện lớn của STG-45 là giá giảm đi gần một nửa. STG-45 dùng đạn súng ngắn, nên tác dụng súng trường của nó mờ nhạt.
Còn AK thì thành công rực rỡ như vậy. Ngoài những chiến lược thiết kế chính, AK còn có một số giải pháp lẻ nhưng rất ưu việt. Ví như đạn hình côn với băng đạn cong (trước đây, súng trường thường dùng đạn trụ), trích khí xung. Các chiến lược thiết kế như chọn chế độ bắn, bắn tiết kiệm đạn, sau này trở thành tiêu chuẩn cho súng trường tấn công. Nhưng tiêu chuẩn cơ bản là dùng đạn súng trường nhỏ, tầm bắn hiệu quả 200-400 mét, bắn tiết kiệm đạn, chọn chế độ bắn. Một tiêu chuẩn mà không khẩu nào đạt được như AK là dễ chế tạo, cái này người Nga và Đức yêu cầu cao, nhưng các nước khác không chú ý, có thể là do các nước khác chưa từng gặp cảnh suýt chết.
Cho đến khi AK-47 đã phổ biến ở khối Đỏ, thì phần còn lại của thế giới vẫn đi theo hướng cạc bin lên thanh. Người Đức lúc đó đang bị hạn chế quân sự nên mãi sau mới thiết kế lại khẩu STG-45 chuyển sang đạn súng trường (cuối những năm 1950). Việc xuất hiện súng trường tấn công cũng đặt ra nhu cầu cỡ đạn cho nó. Heckler & Koch G3 là phiên bản súng trường tấn công hoàn thiện từ STG-45. Như vậy, AK-47 là khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới. G3, với các đặc điểm khá đầy đủ của súng trường tấn công, nhanh chóng phổ biến rất rộng rãi.
Hoạt động của AK đã gây áp lực cho các khẩu súng trường tấn công khác. Tuy nhiên, hàng chục năm sau đó các nước khác mới hiểu được giá trị của chiến lược thiết kế AK. Ví dụ, tốc độ bắn chậm và chọn chế độ bắn.