Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:57:35 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 129628 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:41:58 am »

*
*   *

Tại tỉnh Gia Định, từ mùa thu 1950, thực dân Pháp tăng quân đóng lại các đồn bót đã mất và thành lập thêm nhiều tháp canh mới. Từ các đồn bót này, chúng bung ra lấn chiếm các vùng ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè, khống chế, kiểm soát nghiêm ngặt ở các ngã đường giao thông dẫn vào thành phố, đưa quân càn quét mãnh liệt vào các căn cứ Bình Mĩ, Bén Cát, Vườn Thơm, Rừng Sác. Đặc biệt các cuộc hành quân càn quét của địch uy hiếp mạnh căn cứ của ta ở Hóc Môn và Bến Cát, ngăn cắt hành lang vận tải và thông tin liên lạc từ thành phố lên căn cứ Hố Bò, An Nhơn Tây và Long Nguyên.

Tháng 10 năm 1950, phối hợp với chiến dịch biên giới, Bộ tư lệnh Khu 7 mở chiến dịch Bến Cát, nhằm mục đích cắt đứt và giải phóng đường số 7, đường số 14 của địch, mở rộng căn cứ liên hoàn của ta hai bên sông Sài Gòn, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong toàn khu, mở thông đường tiếp tế từ Khu 8 lên Sài Gòn và vùng văn cứ miền Đông Nam Bộ.

Bến Cát nằm về phía Tây Bắc Sài Gòn, kẹp giữa đường 13 về phía Đông và sông Sài Gòn về phía Tây. Với riêng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, chiến dịch Bến Cát sẽ có tác dụng chia cắt đường 5 Hóc Môn, giải tỏa áp lực của địch ở Hóc Môn vào căn cứ của ta, nối thông hành lang từ Sài Gòn lên căn cứ của Đặc khu. Tham gia với lực lượng tiến hành chiến dịch, ngoài số các đơn vị bộ đội chủ lực biên chế trong các tiểu đoàn của trung đoàn Đồng Nai, tỉnh Gia Định có một số đại đội độc lập của huyện Hóc Môn và hàng trăm dân công được huy động sẵn sàng đi vận tải lương thực, vũ khí, tải lương, phá đường. Nhiệm vụ của tỉnh là tập trung lực lượng đánh bót Rạch Kiến, hỗ trợ cho lực lượng của trên tiêu diệt một số mục tiêu khác dọc đường số 7 và đường số 14, đánh quấy rối tiêu hao địch trên các đường giao thông, kềm chân quân địch tại khu vực Hóc Môn.

Rạch Kiến là một bót lớn được địch xây dựng kiên cố (trong hệ thống đồn bót nằm giữa Bến Súc và Rạch Bắp). Nằm sát bờ sông Sài Gòn, đối diện xã Phú Mĩ Hưng. Tại đây có hai trung đội địch được trang bị súng máy và pháo cối. Quan niệm đây là chiến dịch “chính quy” phải có súng lớn tham gia, Ban chỉ huy quân sự tỉnh Gia Định cho moi một khẩu súng ca nông 75 li (chôn giấu từ năm 1949) để sử dụng trong trận đánh. Theo kế hoạch, đại bác của ta khai hỏa bắn vào bót, yểm trợ cho bộ binh vận động tiếp cận diệt bót.

21 giờ ngày 7 tháng 10 năm 1951, chiến dịch Bến Cát bắt đầu. Quân ta tiến công địch ở tháp canh Sunaud và đồn Bến Súc. Ngày 18 tháng 10, lực lượng vũ trang Gia Định nổ súng tiến công bót Rạch Kiến. Ca nông mới bắn được vài chưa trúng địch thì bị hỏng. Quân địch trong đồn dùng hỏa lực bắn trả mãnh liệt, bộ binh ta không xông vào được. Sau khi chờ sửa ca nông mãi không được, ban chỉ huy trận đánh quyết định cho bộ đội rút lui. Trận đánh không thành công.

Ngày hôm sau, giặc Pháp tổ chức trận càn quét lớn vào căn cứ của ta. Chúng điên cuồng sục sạo cố tìm bằng được khẩu pháo của ta. Nhiều nhà cửa, ruộng vườn bị chúng đốt cháy, phá phách. Ta bảo vệ được khẩu pháo an toàn.

Các lực lượng tham gia chiến dịch của tỉnh Gia Định vẫn tiếp tục chiến đấu, phá hoại giao thông địch và bảo đảm chiến đấu trong cả ba đợt của chiến dịch. Đầu tháng 11, bót Rạch Kiến bị hạ bằng lối đánh đặc công kết hợp xung kích của đơn vị bạn. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, chiến dịch Bến Cát kết thúc thắng lợi.

Lần đầu tiên, quân và dân Gia Định tham gia một chiến dịch hợp đồng nhiều đơn vị, cũng là chiến dịch được coi là duy nhất diễn ra trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch không những đạt được cơ bản yêu cầu đề ra ban đầu, mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho quân và dân miền Đông nói chung, tỉnh Gia Định nói riêng về khả năng hợp đồng tác chiến, về đánh đồn bót, sử dụng đặc công và bộ binh, pháo binh, chuẩn bị hậu cần và huy động lực lượng quần chúng tham gia với quy mô lớn.

Sau chiến dịch Bến Cát, địch phản kích đánh phá các khu căn cứ của tỉnh và các huyện. Nhiều vùng du kích của tỉnh trước kia nay trở thành vùng “xôi đậu” hay vùng bị tạm chiếm. An Phú Đông, một căn cứ của tỉnh từ đầu kháng chiến tồn tại trong thế giằng có suốt 5 năm nay bị giặc đóng bót. Vùng Tân Mĩ - Bình Lí, căn cứ của tỉnh trước đây, nay cũng bị đánh phá nặng. Các xã Long Phước Thôn, Tam Đa, Phú Hữu, căn cứ của huyện Thủ Đức, bắt đầu bị lấn chiếm. Các xã phía Nam huyện Hóc Môn, Đông Thạnh, Tân Hiệp, Tân Thạnh Đông, Xuân Thới Sơn cũng bị địch uy hiếp mạnh.

Phát huy thắng lợi chiến dịch Bến Cát, quân và dân Gia Định nỗ lực đánh địch giữ đất, giữ dân, bảo vệ căn cứ địa của tỉnh, của huyện. Cuộc chiến đấu giằng co giữa ta và địch diễn ra hết sức quyết liệt. Tổng kết công tác kháng chiến năm 1950, tỉnh Gia Định được Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ tặng giải nhất về “thành tích du kích chiến tranh, kinh tế tài chính, văn hóa xã hội” và được tuyên dương là một trong những tỉnh đứng đầu của Nam Bộ. Trong cuộc hội nghị dân quân chính của tỉnh, đồng chí Dương Quốc Chính, trưởng phái đoàn quân sự Trung ương nói: “Đồng bào Gia Định rất xứng đáng với truyền thống đấu tranh bất khuất của Mười tám thôn vườn trầu, của Nam Kì khởi nghĩa”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:43:14 am »

Sang năm 1951, địch liên tiếp mở các cuộc đánh phá bình định. Chúng đóng bót sâu vào các vùng căn cứ dọc sông Sài Gòn, đường số 1, 5, 7, 8, 9 và An Phú Đông, Long Phước Thôn, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông, Rạch Bắp, kéo dài tới Dầu Tiếng. Địa bàn căn cứ của tỉnh bị thu hẹp không còn chỗ đứng chân. Vùng khu 5 Hóc Môn nhiều năm là căn cứ kháng chiến vũng chắc của tỉnh nay nằm trong vùng địch kiểm soát. Tỉnh phải dời căn cứ sang An Thành (Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một). Tháng 5 năm 1951, Pháp điều 3 tiểu đoàn có máy bay tàu chiến hỗ trợ mở cuộc càn vào căn cứ khu 5 Hóc Môn. Du kích và bộ đội ta chặn đánh quyết liệt trong ba ngày đêm, gây cho địch một số thiệt hại. Sau khi rút quân, địch để lại một đại đội lính ngụy đóng bót ở chợ An Nhơn Tây. Đại đội đóng bót này thường xuyên bị du kích và bộ đội ta tập kích quấy phá liên miên. Ban ngày, chúng ra khỏi bót thì bị đánh, ban đêm cố thủ trong bót thì bị đột kích. Suốt hai tháng đóng bót, quân địch không dám mở một trận càn nào, ngày đêm lo sợ bị đánh, bị tiêu diệt. Thêm vào đó, việc cung cấp lương thực, thực phẩm bị thiếu thốn do bị động chở tiếp tế của Sài Gòn bằng đường sông. Nhiều chuyến tàu tiếp tế bị bộ đội ta chặn đánh trên dọc đường hoặc khi vừa tới bến.

Đối phó với âm mưu lấn chiếm ra ngoại ô của địch, trong những tháng đầu năm 1951, tỉnh Gia Định tổ chức nhiều trận đánh đồn bót và đưa người về hoạt động ở các vùng sâu giáp ranh Sài Gòn. Bộ đội và du kích đánh bót Cây Bài (Phước Vĩnh An), bót Tân Quy (Tân Thạnh Tây), bót Cây Sộp (Tân An Hội), bót Tân Xuân (cách thị trấn Hóc Môn 2km). Ở Thủ Đức, ta đánh bót Ích Thạnh, bót ông Nhiêu, bót Cái Lơn. Ở Nhà Bè, lực lượng du kích trấn áp bọn tề, điệp ở các xã Phú Xuân, Tân Thuận.

Hoạt động chia cắt, lấn chiếm của địch trên toàn Nam Bộ tạo ra cho ta nhiều khó khăn. Tỉnh nào cũng có một hoặc hai huyện khó liên lạc được với tỉnh mình, buộc phải gắn liền với một tỉnh lân cận để phối hợp về mặt quân sự và tiếp tế. Mặt khác địa bàn hoạt động của tỉnh cũng không tương ứng với yêu cầu hoạt động quân sự. Việc phân chia lại chiến trường và tổ chức lại lực lượng trở nên nhu cầu bức xúc.

Cuối tháng 6 năm 1951, theo chủ trương của Trung ương Cục(1), Nam Bộ được chia làm hai phân liên khu, miền Đông và miền Tây. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ tiến hành điều chỉnh lại tổ chức địa giới. Tỉnh Gia Định được chia ra, nhập về ba tỉnh mới. Hai huyện Gò Vấp và Hóc Môn nhập về tỉnh Gia Ninh (gồm tỉnh Tây Ninh, hai huyện Đức Hòa Thành và Trung Huyện của tỉnh Chợ Lớn, hai huyện Gò Vấp và Hóc Môn của tỉnh Gia Định); huyện Thủ Đức nhập vào tỉnh Thủ Biên (Thủ Dầu Một - Biên Hòa); huyện Nhà Bè và Rừng Sác nhập về tỉnh Bà Chợ (Bà Rịa - Chợ Lớn). Việc thành lập tỉnh mới kéo theo sự sắp xếp lại bộ máy hành chính, tổ chức quân sự và xây dựng căn cứ đứng chân của tỉnh, Trung đoàn Đồng Nai giải thể. Các tỉnh xây dựng các tiểu đoàn tập trung mạnh. Tỉnh Gia Ninh có tiểu đoàn 306. Tỉnh Bà Chợ có tiểu đoàn 300. Tỉnh Thủ Biên có tiểu đoàn 303.

Sự sắp xếp lại chiến trường, tổ chức lại lực lượng đã tạo điều kiện khắc phục tinh trạng bị động do địch phong tỏa chia cắt địa bàn, bảo đam sự chỉ đạo thông suốt xuống các chiến trường, các lực lượng, bảo đảm cho mỗi tỉnh có đủ căn cứ đứng chân, lực lượng và cơ sở vật chất đã tiến hành cuộc kháng chiến một cách chủ động, linh hoạt hơn tại địa phương.

Tại tỉnh Gia Ninh, tỉnh ủy mới được chỉ định gồm 13 người (Gia Đinh 9, Tây Ninh 2, Chợ Lớn 2) do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm bí thư, đồng chí Tô Ki làm tỉnh đội trưởng. Chiến trường của tỉnh lúc này được mở rộng và chia thành 2 vùng tác chiến rõ rệt:

- Vùng ven đô và các vùng bị tạm chiếm cùng vùng du kích khác (Gò Vấp, Hóc Môn, Đức Hòa Thành, Trung Huyện, Trảng Bàng, Dương Minh Châu, Châu Thành).

- Vùng “Đất thánh Cao Đài” (gồm gần nửa triệu tín đồ Cao Đài sống chung quanh Tòa thánh Tây Ninh và rải rác các vùng lân cận; có quân đội của số chức Cao Đài phản động chống lại kháng chiến.

Từ năm 1951, trên chiến trường Gia Ninh, ta vừa phải đương đầu với giặc Pháp, lại vừa phải đương đầu với quân đội mang danh nghĩa Cao Đài do Pháp tổ chức.

Nhằm tạo ra và khoét sâu mâu thuẫn giữa Cao Đài và lực lượng kháng chiến, từ năm 1951, giặc Pháp dùng quân đội Cao Đài đánh phá các vùng du kích và vùng ta kiểm soát, nhất là khu vực chung quanh căn cứ Dương Minh Châu. Phân liên khu ủy miền Đông đề ra chính sách Cao Đài vận, mục đích làm lính Cao Đài và tín đồ Cao Đài nhận rõ âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Tỉnh Gia Định Ninh và các đơn vị vũ trang tổ chức nhiều đội vũ trang tuyên truyền đột nhập vào các vùng tập trung tín đồ Cao Đài, các cứ điểm của bộ đội Cao Đài, gọi loa giải thích chính sách của Cách mạng và kêu gọi họ đoàn kết chống kẻ thù xâm lược. Các đơn vị vũ trang được chỉ đạo cố gắng tránh đụng độ, không đánh bộ đội Cao Đài nếu bộ đội Cao Đài không đánh ta và khi đụng đầu với bộ đội Cao Đài thì kêu gọi họ đừng đánh phá vào vùng Cách mạng kiểm soát, đứng làm bia đỡ đạn cho giặc.

Thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt để đẩy quân đội Cao Đài lao vào con đường chống phá kháng chiến quyết liệt. Chúng mở các cuộc càn quét dài ngày và thực hiện đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Ngày nào cúng cũng bắn giết hàng chục người và bắt nhiều thanh niên đem chặt đầu, ném xác xuống sông ở cầu Xáng, cầu Bà Bếp. Ngày 10 tháng 8 năm 1951, địch huy động 7 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội công binh và nhiều xe tăng từ Sài Gòn theo quốc lộ 1 kéo lên đánh phá khu Tân Phú Trung, Tân An Hội, Phước Vĩnh An, một căn cứ du kích nằm ngay phía Bắc Sài Gòn. Địch bao vây liên tục suốt 15 ngày, bắn hàng chục ngàn trái đại bác, dùng hơn 2000kg bộc phá đánh vào địa đạo của ta. Du kích và bộ đội địa phương Hóc Môn kiên cường bám trụ chiến đấu tiêu diệt, tiêu hao hàng trăm tên địch.


(1) Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2 năm 1951), Xứ ủy Nam Bộ đổi thành Trung ương Cục.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:45:24 am »

Do phải chấp hành nghiêm chủ trương của trên, bộ đội ta trong nhiều trường hợp buộc phải né tránh hoặc rút lui mỗi khi thấy quân đội Cao Đài đi ngang qua càn quét.

Lợi dụng chủ trương Cao Đài vận của ta, quân Pháp thường bố trí quân đội Cao Đài đi trước trong các cuộc hành quân càn quét. Chúng dùng thủ đoạn ra lệnh cho quân đội Cao Đài không nổ súng chờ cho bộ đội Cao Đài đi qua, sau đó mới quay trở lại phối hợp với bộ phận quân Pháp đi sau bao vây đánh lại ta từ hai phía. Không đánh quân đội Cao Đài, ta đã không đánh được Pháp mà còn bị thiệt hại nặng về người, mất vũ khí, mà bắn lại bộ đội Cao Đài thì sợ sai chính sách. Nhiều cán bộ chỉ huy quân sự hoang mang, chưa tìm ra được biện pháp giải quyết. Trong lúc đó, đồng bào tỏ thái độ rõ ràng: “Lôi kéo thì cứ lôi kéo, còn đánh thì cứ phải đánh và phải đánh mạnh mới lôi kéo được. Các anh sợ bộ đội Cao Đài thì rút đi, giao súng lại cho chúng tôi”(1).

Những biểu hiện hữu khuynh trong thực hiện chủ trương Cao Đài vận đã làm cho tình hình chiến trường ở Gia Ninh ngày càng căng thẳng hơn.

Tại vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, địch ráo riết thực hiện “bình định”, lập thêm nhiều trường học để thu hút đồng bào từ vùng du kích và căn cứ về vùng chúng kiểm soát. Hầu hết các huyện phía Nam của tỉnh đều bị đánh phá nặng, nhiều nơi bị lấn chiếm.

Tuy nhiên, trong điều kiện vô cùng khó khăn như vừa nêu phong trào du kích chiến tranh ở Gia Định (cũ) vẫn được duy trì. Các vùng Thủ Đức, Trung Huyện, Hóc Môn vẫn giữ được hoạt động du kích như trước. Đồng bào vùng Đông Hưng Thuận, Vĩnh Lộc, Nhị Hòa (Gò Vấp) nằm sâu trong vùng địch kiểm soát vẫn kiên trì đấu tranh chống đuổi nhà, cướp đất. Chung quanh các thị trấn huyện lị, tiếng súng diệt tề, trừ gian của du kích vẫn tiếp tục nổ ra. Đồng bào trong các huyện vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, tích cực ủng hộ kháng chiến, góp công, góp của cho cách mạng, đưa con em mình vào du kích, vào bộ đội.

Tại chiến khu Rừng Sác, theo chủ trương của trên, để phát triển chiến tranh du kích và tiếp tục xây dựng căn cứ, trung đoàn 300 chia thành các đại đội và đội biệt động đi hoạt động khắp nơi… Phát huy thắng lợi trận đánh tàu Sai - Loubarbier, các đội binh chủng chuyên môn (ngày càng phát triển về số lượng và được trang bị thêm một số súng SZB, SZA) tổ chức nhiều trận đánh tàu liên tiếp trên sông Lòng Tàu. Ta làm chủ được từng thời gian một số đoạn trên sông Lòng Tàu và sông Thị Vải.

Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động đánh tàu địch của các đội binh chủng chuyên môn, trung đoàn còn tổ chức các đội bắn tỉa dọc sông. Bị bắn tỉa thường xuyên, bọn lính hoảng sợ chui hết xuống dưới boong mỗi khi tàu vào đến ngã Bảy hoặc ra đến Nhà Bè. Nhờ đó, các đơn vị binh chủng hoạt động dễ dàng hơn. Trung đoàn còn kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức các đội đặc công thủy chuyên làm nhiệm vụ chuyên đánh tàu hàng của địch trên sông Soài Rạp (chủ yếu là số tàu tuyến Nam Vang - Sài Gòn, lục tỉnh - Sài Gòn) lấy lương thực, máy móc cung cấp trang bị cho ta.

Tháng 6 năm 1951, tỉnh Bà Chợ thành lập gồm 4 huyện Long Đất, Vũng Tàu, Long Thành, Liên Huyện, do Võ Văn Khánh làm bí thư tỉnh ủy, Trần Thắng Minh làm tỉnh đội trưởng. Tiểu đoàn 300 được Khu 7 giao về làm tiểu đoàn tập trung của tỉnh Bà Chơ. Khu Rừng Sác nhập vào liên huyện gồm Nhà Bè - Cần Đước - Cần Giuộc do Hồng Vũ làm Bí thư huyện ủy. Huyện ủy xây dựng một đại đội độc lập gồm nhiều binh chủng thủy lôi, bộ binh, biệt động, hoạt động ở hướng Nhà Bè, Cần Giờ.

Phối hợp với tiểu đoàn 300, các lực lượng vũ trang Liên Huyện đẩy mạnh hoạt động đánh địch, đặc biệt đánh tàu và kho tàng của địch trong Rừng Sác. Giặc Pháp dùng máy bay ném bom ven Rừng Sác và dùng pháo bắn sâu vào những nơi chúng nghi có ta đóng quân. Tàu tuần tiễu của chúng rà quét ngày đêm trên sông nhằm ngăn chặn lực lượng ta tấn công vào đất liền. Tuy vậy, nhiều căn cứ kho tàng của địch dọc sông Lòng Tàu vẫn bị ta tấn công, đốt cháy. Tháng 6 năm 1951, tổ chức đặc công của tiểu đoàn 300 đột nhập đánh cháy kho xăng Nhà Bè. Kho xăng Nhà Bè được bảo vệ rất chu đáo, xung quanh có 5 lớp rào kẽm gai kết hợp với mìn và lựu đạn gài. Các lô cốt được dựng lên cách đều nhau, bảo đảm quan sát và báo động liên hoàn trong toàn khu vực, ban đêm có đèn pha chiếu sáng. Ba đại đội Âu Phi thay nhau canh gác suốt ngày đêm. Nửa đêm, tổ đặc công gồm 5 chiến sĩ do Tiến chỉ huy đã bí mật lọt vào khu vực kho và dùng mìn điện gây nổ cháy các bồn xăng. Ngọn lửa của hơn nửa triệu lít xăng bốc cháy kéo dài đến 16 giờ ngày hôm sau mới tắt.

Cùng với việc đánh tàu và căn cứ kho tàng của địch ở Rừng Sác, tại các xã thuộc vùng tự do, công tác “hậu cần tại chỗ” được chú trọng đẩy mạnh. Bước sang năm 1951, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực càng gặp khó khăn, phần do địch kiểm soát gắt gao. Bộ đội ở Rừng Sác phải ăn các loại hải sản như cá, cua, còng và các loại rau rừng, kể cả đọt chà là(2) trừ cơm. Bà con ở các xã có diện tích trồng lúa đã đem phần lớn sản phẩm thu hoạch được ủng hộ kháng chiến và nhận về các “biên lai gạo” do những đơn vị ở Rừng Sác mua chịu hoặc mượn.

Ngoài lương thực, nước ngọt cũng là một vấn đề nóng bỏng, gay gắt giữa một vùng bao la nước mặn. Tạo và trữ nước ngọt được coi là vấn đề then chốt trong đời sống đối với nhân dân và chiến sĩ hoạt động ở Rừng Sác. Để lấy được nước ngọt, ở vùng như An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp, Thạnh An… phải vượt hàng chục cây số kênh, rạch, sông ngòi, phải tổ chức lực lượng lấy, vận chuyển và bảo vệ có kế hoạch tác chiến như đi chiến đấu. Trên mặt trận này, thường xuyên xảy ra những trận nổ súng giữa các chiến sĩ ta với các chốt và các toán phục kích của giặc, đôi khi phải hi sinh cả tính mạng.

Mùa thu năm 1951, lực lượng vũ trang Liên Huyện được củng cố, thành lập hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn chuyên đánh thủy lôi có trang bị súng không giật 72 li và một tiểu đoàn bộ binh. Ban chỉ huy Liên Huyện (Phạm Văn Binh huyện đội trưởng) điều hai đại đội lên hoạt động trên kinh Bo Bo (Đồng Tháp Mười). Lực lượng còn lại đóng quân ở Rừng Sác, hoạt động ở cả ba huyện cũ, hướng chính vẫn là các xã đất liền thuộc Nhà Bè và vùng bến cảng.

Huyện Thủ Đức được chuyển về tỉnh Thủ Biên từ tháng 6 năm 1951, trở thành vùng tạm bị chiếm ở phía Đông Bắc Sài Gòn. Hoạt động quân sự ở đây vẫn duy trì liên tục, nhưng diễn ra nhỏ lẻ. Bộ đội địa phương phân tán thành các đội công tác lẻ, bám chiến trường, làm nòng cốt cho các bộ phận du kích xã, ấp đánh giặc, xây dựng phong trào chiến tranh du kích.


(1) Về công tác Cao Đài trong kháng chiến chống Pháp - Tài liệu TD 212 Phòng Khoa học lịch sử quân sự Quân khu 7.
(2) Chà Là là một loại cây mọc phổ biến ở vùng rừng ngập mặn ven biển.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:46:19 am »

*
*   *

Tháng 8 năm 1951, tướng Bondis đến Sài Gòn thay Chanson làm tư lệnh lục quân Pháp tại Việt Nam. Bondis tiếp tục đường lối bình định cũ, nỗ lực cô lập Sài Gòn với các tỉnh Nam Bộ, phá hoại nền kinh tế kháng chiến của ta.

Cũng từ tháng 6 năm 1951, công việc phân chia sáp nhập tỉnh, tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể, vũ trang về cơ bản được hoàn tất ở các huyện ngoại thành.

Trung tuần tháng 8 năm 1951, Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn hội nghị cán bộ quân sự toàn Đặc khu. Hội nghị đã phân tích những bộc lộ nhược điểm trong xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang như tư tưởng xây dựng bộ đội chính quy đánh lớn, thích tác chiến theo lối hợp đồng lớn, “chính quy”… không phù hợp với điều kiện chiến trường ở Sài Gòn và vùng ven (bị địch kiểm soát và chia cắt mạnh), công tác bảo đảm hậu cần của ta chủ yếu dựa vào sự cung cấp phân tán trong nhân dân. Hội nghị đã đề ra một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy hiệu quả thực tế hoạt động của các lực lượng vũ trang trong điều kiện địch kiểm soát đánh phá gắt gao, cơ sở đoàn thể bị vỡ nhiều. Đây là hội nghị chuyên đề công tác quân sự nội thành đầu tiên của Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn… Các cơ quan quân, dân, chính ở ngoại thành cũng được giản chính. Nhiều cán bộ được điều về làm nhiệm vụ củng cố cơ sở. Nghị quyết của hội nghị đã kịp thời uốn nắn những biểu hiện không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của chiến trường, tổ chức lại và đẩy mạnh hoạt động lực lượng vũ trang nội thành trong điều kiện cuộc chiến đấu ngày càng trở nên gay gắt hơn.

Hội nghị quân sự của Đặc khu ủy diễn ra trong lúc địch tăng cường đánh phá các cơ sở trong nội thành. Chính phủ bù nhìn Trần Văn Hữu ra lệnh tổng động viên (theo (Dụ số 12 ngày 15 tháng 7 năm 1951) và chuẩn bị kiểm tra dân số. Các bộ máy tuyên truyền của địch ngày đêm ra rả động viên xây dựng “Quân đội quốc gia”. Hàng trăm thanh niên ở thành phố bị ép buộc nhập ngũ và đưa đi các trại huấn luyện ở Sóc Trăng, Cây Diệp.

Hoạt động của địch gây cho ta nhiều khó khăn trong việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự của Đặc khu ủy. Liên tiếp 9 cán bộ quân sự bị địch bắt giam khi chưa kịp phổ biến tinh thần Nghị quyết xuống các đơn vị. Trước âm mưu và hành động của địch, Đặc khu ủy chỉ đạo cho các đơn vị, địa phương chuyển trọng tâm công tác sang chống bắt lính và phá kế hoạch xây dựng quân đội bù nhìn của địch. Tuy nhiên, do cán bộ của ta lo giữ bí mật, tránh sự kiểm tra của địch nên hoạt động ít thu được kết quả. Trong hai tháng 8 và 9, một số cơ sở của ta bị phá vỡ ở quận 1 và quận 2. Ban Thường vụ Đặc khu ủy mất liên lạc với các quận 1, 2 và 4. Rải rác tại các quận, hộ trong thành phố, thanh niên và những gia đình có con em đến tuổi đăng lính đã tìm mọi biện pháp khôn khéo đấu tranh với địch. Mặc dù các cuộc đấu tranh này không phát triển thành phong trào rộng, nhưng trên thực tế có ảnh hưởng lớn đối với đồng bào, cán bộ, các đoàn viên, đội viên trong thành phố.

Tháng 10 năm 1951, chiến dịch kiểm tra bắt lính của địch lắng xuống. Tình hình trở nên ổn định hơn. Đặc khu bắt đầu triển khai các đội Quyết tử vào phụ trách từng khu vực hỗ trợ cho phong trào nội thành.

Đại đội 3721 hoạt động ở khu quân sự B (phía Sài Gòn - Nancy), khu Chợ Lớn mới, khu kĩ nghệ, hộ 15; lấy Vĩnh Lộc, Bình Trị Đông, Phú Thọ Hòa, hộ 15, chợ Thiếc làm căn cứ bàn đạp.

Đại đội 3824 hoạt động ở khu người Âu, khu hành chính, khu thương mại Hoa - Việt, khu trường bay, Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vĩnh Hội; lấy An Phú Đông, Tân Thới Hiệp và vùng Bàn Cờ làm căn cứ bàn đạp.

Đại đội 2763 nặng về củng cố tổ chức, chấn chỉnh từng bộ phận, nâng cao trình độ kĩ thuật chiến đấu của trung đội 60 tập trung (chuẩn bị sau này tách cho các hộ), phát triển trung đội 55 đưa sâu vào quận 3 và các hộ 16, 15, 7, 8 làm nòng cốt cho việc xây dựng dân quân du kích cơ sở.

Do chủ yếu làm nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng nên trong thời gian này các đơn vị ít hoạt động tác chiến. Gần cuối năm 1951, chỉ có một số đơn vị bắt đầu chiến đấu lẻ tẻ (tháng 11 năm 1951 ném lựu đạn trước nhà hát Tây và trước dinh Xã Tây). Nhiều cán bộ chiến sĩ trong khi chưa ổn định xong thế đứng chân đã bị địch bắt ngay. Chỉ tính trong 5 tháng cuối năm 1951, ta bị địch bắt và sát hại 25 cán bộ trung đội và 35 cán bộ tiểu đội.

Để tránh bị lộ, vỡ lan rộng và tạo điều kiện phát huy hết khả năng của các ngành chuyên môn, đầu tháng 12 năm 1951, Thường vụ Đặc khu chủ trương tạm thời cắt đứt liên lạc ngang giữa các ngành chuyên môn với các cấp ủy quận, hộ nội thành. Các cơ quan chuyên môn đầu não ở ngoại thành chỉ huy thẳng ngành dọc của mình. Đồng thời, Đặc khu tiến hành tổ chức lại cơ quan Đặc khu ủy, lập ra các Ban cán sự (về Đảng) và cơ quan quân sự Đặc khu, họp nhất hai cơ quan tham mưu, chính trị làm một gọi là Ban tham mưu chính. Toàn bộ cơ quan Đặc khu ủy và cơ quan quân sự Đặc khu được chia thành 3 bộ phận bố trí ở 3 hướng xung quanh thành phố.

Ở hướng Bắc: Ban cán sự 1 do Đào Tấn Xuân chỉ đạo. Ban tham chính I do Nguyễn Chanh phụ trách. Căn cứ đặt tại Tân Long (Thủ Dầu Một).

Ở hướng Đông: Ban cán sự II do Nguyễn Hộ chỉ đạo. Ban tham mưu chính II do Nguyễn Tứ Phương phụ trách. Căn cứ đặt tại Nhơn Trạch (Long Thanh - Biên Hòa).

Ở hướng Tây: Ban cán sự (gồm bộ phận chính của cơ quan Đặc khu ủy) do Trần Quốc Thảo chỉ đạo. Ban tham chính III (cũng là bộ phận chính của cơ quan quân sự Đặc khu do Lương Đường Minh phụ trách. Căn cứ đặt bên sông Vàm Cỏ Đông (Chợ Lớn).

Việc chấn chỉnh lại hệ thống tổ chức Đảng và quân sự ở nội thành theo hướng gọn nhẹ, chia nhỏ đã tạo điều kiện bảo đảm sự chỉ đạo sát thực, làm cho các hoạt động kháng chiến ở từng nơi diễn ra chủ động, kịp thời và linh hoạt phối hợp với nhau.

Nhìn chung, từ tháng 8 năm 1950 đến cuối năm 1951 là giai đoạn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bị địch bắt khủng bố, đánh phá ác liệt. Phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề. Các cấp ủy Đảng và chính quyền kháng chiến đã nỗ lực điều chỉnh tổ chức chiến trường, lực lượng, cũng như phương thức, biện pháp tiến hành đấu tranh nhằm đối phó với âm mưu và hành động của địch, đấu tranh giằng co quyết liệt với chúng, từng bước khôi phục và gìn giữ phong trào kháng chiến.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:47:11 am »

II. THỰC HIỆN PHƯƠNG CHÂM PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH THÍCH HỢP
TRÊN BA VÙNG KHÁNG CHIẾN, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO
CÁCH MẠNG NỘI ĐÔ, GÓP PHẦN CÙNG TOÀN MIỀN VÀ CẢ NƯỚC
ĐÁNH THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP


Bước sang năm 1952, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta trên cả nước đang phát triển thuận lợi. Tại chiến trường Bắc Bộ, giặc Pháp thua đau trong chiến cuộc đông xuân 1951-1952. Riêng ở Nam Bộ, chúng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách bình định, củng cố các vùng chiếm đóng, lấn sâu vào các khu căn cứ của ta hòng tìm cách tiêu hao sức chiến đấu và ngăn chặn hoạt động của lực lượng kháng chiến từ ngoại ô vào thành phố. Chúng tăng cường cướp bóc và tận dụng khả năng về nhân, vật lực tại chỗ nhằm duy trì tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược.

Tại Sài Gòn, địch tăng cường thêm quân, mở rộng các căn cứ quân sự và đẩy mạnh đánh phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Lực lượng ngụy quân trong năm 1952 ở Sài Gòn và các tỉnh xung quanh là 41.866 tên (trong tổng số 77.234 tên trên toàn Nam Bộ), số Âu Phi là 21.165 tên (trong tổng số 33.807 tên trên toàn Nam Bộ). Sân bay Tân Sơn Nhất được mở rộng đến đường quốc lộ 1 đi Phnôm Pênh và qua con đường địa phương số 15 đi Hóc Môn. Một con đường xe lửa được xây dựng mới cùng với một con đường đã rộng 30 mét nối cầu Bình Lợi với Tân Sơn Nhất. Bình Lợi biến thành một quân cảng quan trọng dùng để chuyển tải vũ khí, đạn dược, nguyên liệu và quân dụng chiến tranh của Pháp vào khu vực kho tàng hậu cần lớn vừa được mở rộng ở An Hội và Hạnh Thôn, Gò Vấp. Cùng với việc mở rộng căn cứ quân sự, địch tăng cường hoạt động mật thám, tung do thám chỉ điểm thâm nhập vào nội bộ của ta. Chúng phân chia nhiệm vụ và phạm vi hoạt động giữa các loại tay sai như cảnh sát, mật thám, Bình Xuyên… nhằm tận dụng hết “sở trường” của bọn này trong nhiệm vụ đánh phá cách mạng. Ở ngoại thành, địch tiếp tục bình định khu vực vùng ven, đẩy lực lượng ta ra xa, tăng cường quyền lực cho chính quyền bù nhìn các cấp và ra sức tuyên truyền chia rẽ đường lối kháng chiến, chống phá Mặt trận đoàn kết toàn dân của nhân dân ta.

Để chống âm mưu, hành động của địch, đầu năm 1952, Ban chỉ huy quân sự Đặc khu đề ra nhiệm vụ chung là:

- Chống lại sự phát triển sâu rộng của bọn tai mắt cảnh binh, mật thám, công an, cảnh sát, Bình Xuyên, những hoạt động xâm nhập lấn vào cơ sở tổ chức của ta tích cực trừ gian, duy trì bằng được sự bảo tồn lực lượng và hoạt động kháng chiến của ta ở thành phố.

- Tăng cường ý thức phòng gian, phản gián và công tác bí mật, xây dựng khí tiết cách mạng, tinh thần quyết tử trong lúc bị địch bắt, tra tấn để bảo vệ tổ chức.

- Chỉnh đốn các cơ quan chuyên môn, giản chính triệt để, tăng cường chất lượng cán bộ, phân tán để nắm cho sát các đơn vị và bám sát được địa bàn hoạt động chung quanh thành phố. Đưa biệt động đội 2763 vào thành lập Ban quân sự quận 3 để xây dựng lực lượng vũ trang trong nội thành.

Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn tiếp nhận nhiệm vụ nêu trên trong hoàn cảnh không bớt khó khăn: phải luôn luôn đương đầu với địch mạnh hơn gấp bội về mọi phương diện và luôn tấn công ta hằng ngày hằng giờ, tình trạng thiếu cán bộ, thiếu chủ động và khó khăn trong việc đào tạo bổ tức cán bộ, huấn luyện đội viên, bộ máy chỉ huy lãnh đạo phần nhiều nằm ở ngoại thành, lại thiếu cơ sơ bàn đạp nên việc chỉ huy thường bị động, không sát thực tế và không kịp thời, phương tiện giao thông liên lạc yếu kém, việc phổ biến chủ trương không kịp thời và đúng lúc. Các đơn vị vũ trang của Đặc khu đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, ổn định một bước thế chân, bảo toàn lực lượng và thực hành một số trận chiến đấu đánh địch có hiệu quả.

Đêm tháng 3 năm 1952, đại đội Quyết tử Dương Văn Dương 2/300 phối hợp với một đại đội của tiểu đoàn 300 đánh tàu Lataken trên sông Soài Rạp. Tàu Tataken có trọng tải lớn nhất trong đoàn tàu của hãng SITA, chuyên vận chuyển hàng hóa, vũ khí, lương thực từ Sài Gòn đi Phnôm Pệnh (bằng đường sông Sài Gòn - Soài Rạp - Vàm Cỏ Đông - Mê Kông). Nhờ bố trí được trinh sát nằm trong hãng SITA, nắm được quy luật hoạt động vận chuyển của địch, đại đội 2/300 quyết tâm đánh tàu. Đơn vị xây dựng một đội đặc công nước gồm những chiến sĩ có khả năng bơi lặn giỏi hàng kilômét trên sông trong điều kiện có sóng gió mạnh. Trận đánh diễn ra nhanh gọn. Các chiến sĩ đặc công nước bơi ra giữa sông, ném móc leo lên tàu Talaken, dùng súng và lựu đạn khống chế bắt tài công và thủy thủ lái tàu vào xóm Rạch Lá, nơi có lực lượng phục kích của ta chờ sẵn. Ta thu 4 ôtô Peugeot, 100 xe đạp Peugeot, nhiều tấn bột mì, nhiều dụng cụ máy phay, máy tiện và các loại hàng hóa khác, sau đó đánh chìm tàu và dùng ghe chở chiến lợi phẩm về căn cứ an toàn. Đây là trận đánh đặc công nước đầu tiên của đại đội 2/300.

Đêm ngày 15 tháng 3 năm 1952, tổ đặc công Lê Văn Thọ cùng nhiều chiến sĩ huyện đột Gò Vấp đột nhập đốt cháy kho bom An Hội. Sau đó đêm 31 tháng 8 năm 1952, đại đội Quyết tử 3721 (chuyển thành đơn vị 205 đặc công) tổ chức một nhóm 3 đồng chí (Cung, Thanh, Liên) dùng mìn làm nổ tung 52000 tấn bom đạn các loại và trên 2000 phuy xăng tại khu vực Phú Thọ Hòa. Tiếng nổ kéo dài hơn một ngày đêm, cả Sài Gòn và vùng lân cận rung chuyển dữ dội. Một đại đội lính Âu Phi canh gác khu vực bị thương vong nặng.

Ngày 18 tháng 9 năm 1952, đơn vị quyết tử Thành lại tổ chức một tổ do Nguyễn Văn Cứng chỉ huy, cùng chiến sĩ Bùi Văn Ba vào nội thành, phối hợp với một chiến sĩ nội tuyến tiến công câu lạc bộ sĩ quan không quân Pháp tại góc đường Mac Mahon - Mayer (Nam Kì khởi nghĩa và Võ Thị Sáu ngày nay), diệt 60 sĩ quan Pháp.

Cuối năm 1952, các đồng chí Nguyễn Văn Linh (Bí thư Đặc khu ủy) và Phạm Ngọc Thạch (Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh Đặc khu) và chiến khu Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí Trần Quốc Thảo đảm nhận nhiệm vụ Quyền Bí thư Đặc khu ủy. Tổ chức lãnh đạo và chỉ đạo của Đặc khu vẫn nằm trong tình trạng bị phân tán, mặc dù có sát cơ sở hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:47:59 am »

Tại Gia Ninh, từ năm 1952 trở đi, trừ vùng Dương Minh Châu và huyện Châu Thành, còn lại đều trở thành vùng tạm bị chiếm. Địch tăng cường đánh phá, thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá”, dồn lực lượng kháng chiến vào thế phải đầu hàng. Sự tranh chấp giữa ta và địch rất quyết liệt. Chúng tăng cường mức độ càn quét gấp nhiều lần so với những năm trước, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương chính sách của ta nhằm gay mất đoàn kết giữa cán bộ, bộ đội với đồng bào, phong tỏa gắt gao vùng ta kiểm soát, hòng không để một hạt gạo, một viên thuốc lọt ra vùng du kích, vùng căn cứ. Máy bay địch ngày đêm đánh phá, ném bom bừa bãi những nơi chúng nghi là cơ quan, chỗ đóng quân của ta. Chúng tung do thám, gián điệp, quân biệt kích vào các cuộc hành quân càn quét. Mặc dù sống trong vùng kìm kẹp ngặt nghèo của địch, đơn vị vùng tạm chiếm vẫn tham gia công tác kháng chiến. Từ những bà má chuyên lo đào hầm bí mật đến các em nhỏ chăn trâu ngoài đồng, tất cả đều biết lợi dụng sơ hở của địch để hoạt động có lợi cho cách mạng. Nhờ rút kinh nghiệm về phương pháp đấu tranh sát hợp và thiết thực, phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh chống bắt lính, chống đuổi nhà, chống tập trung dân, kết hợp với đấu tranh vũ trang được đẩy mạnh. Nhiều tên tề điệp nguy hiểm bị trừng trị ngay giữa thị trấn Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức… Nhiều bản án xử tội bọn Việt gian được đưa tận tay bọn chóng. Du kích bắt đầu đánh những trận bất ngờ, chớp nhoáng vào ngay những nơi mà địch cho là an toàn như Phú Xuân, Tân Thuận (Nhà Bè), Long Bình, Tam Đa (Thủ Đức).

Ở các vùng căn cứ, nhân dân cùng với bộ đội, du kích tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, tăng gia sản xuất, từng bước xây dựng nền kinh tế kháng chiến. Nổi bật nhất là hoạt động tạm cấp ruộng đất và đóng thuế nông nghiệp. Đến mùa thu năm 1952, toàn tỉnh Gia Ninh đã cấp được trên một nghìn khẩu phần đất cho nông dân nghèo. Nhân dân hăng hái nộp thuế bằng các sản phẩm tự sản xuất được (hoặc bằng tiền) một cách tự nguyện. Phong trào đóng thuế nông nghiệp cho Chính phủ kháng chiến lan rộng vào cả vùng tranh chấp và tạm bị chiếm. Tại vùng tạm bị chiếm, định mức thuế bằng lúa gạo được tính thay bằng hàng hóa khác, hoặc bằng tiền. Giặc Pháp biết đồng bào có nộp thuế cho cách mạng, nhưng không ngăn chặn được. Bà con nông dân nói thẳng với bọn tề ngụy là phải làm nghĩa vụ cho cả “hai bên”, và không làm như vậy thì vùng tạm chiếm không thể sống “yên” được. Bọn ngụy sợ chết, sợ Việt Minh đánh bất ngờ, phải chịu thua trước lí lẽ của nhân dân.

Tháng 10 năm 1952, một cơn bão ập đến, tàn phá dữ dột, gây nên nạn úng lụt nghiêm trọng ở nhiều tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Cả vùng phía Bắc Đặc khu bị chìm trong mưa, bão và ngập nước trong suốt nửa tháng trời. Nhiều nhà cửa, kho tàng bị đổ sập, hàng loạt vườn ruộng đang trồng cây lương thực và hoa màu bị cuốn sạch, hoặc bị thối rữa do chìm dưới 2, 3 mét nước. Hậu quả trực tiếp và nghiêm trọng nhất của bão lụt là gay ra nạn đói. Hàng vạn chiến sĩ đồng bào ở vùng căn cứ lâm vào cảnh thiếu ăn từng ngày. Tiêu chuẩn gạo của bộ đội ngày càng giảm dần, có lúc chỉ còn 2,5kg gạo trong một tháng. Thậm chí có nơi không đủ gạo nấu cháo cho thương binh ăn. Để ổn định đời sống của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh, Tỉnh ủy Gia Ninh chủ trương:

- Tắt cả cơ quan, dân, chính đều phải đẩy mạnh sản xuất, trồng cây hoa màu ngắn ngày và chăn nuôi gia súc, gia cầm.

- Tổ chức đường dây vận tải tiếp tế lấy gạo từ các tỉnh miền Tây về để cứu đói.

- Tập trung thu thuế nông nghiệp ở vùng tranh chấp và vùng giải phóng không bị thiên tai (ở mỗi vùng có biện pháp khác nhau).

- Vận động nhân dân tích cực đóng góp ủng hộ cho cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, sau cơn bão lụt, tất cả cán bộ, công nhân cơ quan của tỉnh đều được huy động vào công tác vận tải tiếp tế và sản xuất. Hình ảnh đội quân tải gạo từ kinh Ba Đồng Tháp Mười về các khu căn cứ miền Đông còn ghi lại dấu ấn sâu dậm trong lòng cán bộ và chiến sĩ Sài Gòn - Gia Định. Đó là những đoàn người gánh hoặc đội gạo băng qua “đồng chó ngáp”, suốt đêm không một chỗ nghỉ chân, không một chỗ đất khô để có thể đặt được 20kg gạo đội trên đầu xuống, những cuộc chiến đấu quyết liệt chống lại địch phục kích, tập kích đánh chặn dọc đường vận tải, máu chảy thấm đỏ những bông gạo. Khắp vùng căn cứ, đơn vị cơ quan nào cũng tích cực tham gia sản xuất. Nước rút đến đâu, khoai lang, bắp được trồng ngay đến đấy. Vịt, gà, heo được nhân giống và nuôi rộng rãi khắp các đơn vị cơ quan. Song song với việc khắc phục nạn đói, các mặt công tác văn hóa, xã hội cũng được tỉnh chú trọng chỉ đạo thực hiện. Các huyện xây dựng được bệnh viện, xã có nhà bảo sanh để phục vụ nhân dân. Chính quyền cách mạng được củng cố. Ta còn lập các tòa án cách mạng để xét xử bọn Việt gian phản động. Công tác xóa nạn mù chữ được duy trì và phát triển khắp nơi. Hoạt động quân sự bắt đầu có chuyển biến. Tỉnh xây dựng tốt tiểu đoàn tập trung, các đại đội địa phương huyện. Hầu hết các xã đều có tiểu đội du kích. Lực lượng ba thứ quân ngày càng phát triển về số lượng và nâng cao về chất lượng.

Tại Bà Chợ, bộ đội địa phương Nhà Bè kết hợp với một trung đội của huyện Cần Giuộc và một tiểu đội của huyện Cần Đước thành lập bộ đội địa phương liên huyện. Các đơn vị lựa một số cán bộ chiến sĩ làm nòng cốt xây dựng các đội binh chủng chuyên môn của huyện (trinh sát, đặc công, thủy lôi, hỏa tiễn). Đầu năm 1952, bộ đội địa phương chuẩn bị chiến trường phối hợp với tiểu đoàn 300 đánh chi khu Cầu Giờ. Chi khu này do hai đại đội thân binh (Partisan) đóng giữ, dưới quyền chỉ huy của tên quan hai người Pháp Alséry. Đây là một căn cứ quan trọng nằm trong hệ thống phòng thủ cửa biển ra vào sông Lòng Tàu của Sài Gòn. Lực lượng tiến công của ta gồm 1 đại đội của tiểu đoàn 300 do Nguyễn Văn Bứa chỉ huy và đại đội địa phương Liên Huyện do Trần Minh Tâm chỉ huy. Đêm 29 tháng 1 năm 1952, quân ta ở Long Thạnh và Đồng Hòa được nhân dân địa phương giúp đỡ phương tiện di chuyển bất ngờ đột nhập từ phía biển lên. Sau khi được nhân dân Cần Thạnh cung cấp tin tức chi tiết về lực lượng bố phòng và tình hình nội bộ của địch, nửa đêm ta bất ngờ đột kích (có nôi ứng hợp đồng mở cửa) nổ súng tấn công. Hai đại đội Partisan bị diệt gọn cùng tên trung úy Pháp. Ngay lúc bắt đầu nổ súng vào đồn chính, mũi xung kích đã phát loa kêu gọi làm rã một trung đội lính Cao Đài. Ta phá hủy một tháp canh. Bọn lính trong 5 tháp canh khác phải tháo chạy. Lực lượng ta làm chủ quận lị suốt đêm mồng 3 tết cho tới sáng. Đây là trận tiêu diệt căn cứ cấp huyện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ kể từ sau ngày Nam Bộ kháng chiến. Sáng hôm sau khi chiến trường vừa mới được thu dọn xong, quân Pháp đem 38 tàu chiến và tàu đổ bộ đến phong tỏa lực lượng của ta ở đây. Tàu chiến của địch đến vừa lúc các đơn vị của ta đang vượt sông Đồng Tranh. Địch phát hiện liền cho bủa vây toàn bộ các sông rạch ở vùng này. Một cánh quân lực lượng ta thoát khỏi vòng vây. Riêng hai cánh quân của Ngô Quang Phiếu và Trần Minh Tâm bị kẹt lại. Mười đêm ròng rã thiếu nước, đói cơm, các chiến sĩ phải sống bằng cua biển và bần chua. Đang trong lúc hiểm nghèo thì đơn vị Ngô Quang Phiếu gặp hai cha con ông già bán dưa hấu. Chiếc ghe chở dưa hấu của cha con ông già ở bên kia sông Đồng Tranh bị cuộc vây tỏa của giặc nên bị kẹt lại. Nhờ có dưa hấu, nhiều chiến sĩ trong tình trạng hôn mê được cứu sống. Sau cùng, cô gái tình nguyện ôm một cặp dưa bơi qua sông để báo cho đồng bào bên đó chuẩn bị đón bộ đội về. Riêng ông lão thì dẫn bộ đội qua một ngã mà ông biết giặc bố phòng lỏng lẻo. Ở đó cứ 15 phút có một chiếc tàu tuần tiễu chạy qua. Lợi dụng chiếc tàu tuần vượt qua, chiếc xuồng của ta lao băng qua sông. Cứ như vậy sau hơn 20 chuyến, chiếc xuồng của cha con ông bán dưa hấu đã đưa toàn bộ cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị Ngô Quang Phiếu vượt sông an toàn.

Cánh quân của Trần Minh Tâm chạm địch và chiến đấu quyết liệt trên sông Lò Vôi. Do địch đông và hỏa lực mạnh nên 150 người của ta phải phá vây thoát ra biển. Cả đại đội lạc vào rừng bốn bề là nước mặn, mọi người phải bắt sò hút nước và ăn đọt chà là để sống. Đến ngày thứ 9, cả đại đội men theo sông lên hướng Bắc để tìm dân, nhưng giữa chừng phải nằm lại vì bị tàu giặc chặn sông. Đến ngày thứ 10, gặp một người dân đi lấy củi, được người này đưa đường cắt rừng vượt vòng vây của giặc về căn cứ an toàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:48:59 am »

Sau thắng lợi trận đánh chi khu Cần Giờ, bộ đội địa phương Liên huyện chấn chỉnh lại tổ chức, học tập rút kinh nghiệm cho những trận đánh sau. Tháng 7 năm 1952, lại tiến công bót Bà Nghĩa, tiêu diệt hai tiểu đội Âu Phi, thu toàn bộ vũ khí. Sau trận đánh, địch huy động 2 tiểu đoàn do một quan năm Pháp chỉ huy càn quét trả đũa, ta diệt thêm một trung đội địch. Ngày 23 tháng 9 năm 1952, phối hợp với đặc công, đội binh chủng chuyên môn Liên Huyện tiêu diệt bót Bình Thạnh, diệt gần một trung đội lính Cao Đài. Liên tiếp trong các ngày 25, 26 tháng 9, ta chống địch càn quét, đánh chìm ba tàu trên sông Chàng Hảng và Bà Nghĩa, bẻ gẫy đợt càn quét của địch (có cả lính Âu Phi), một tên quan ba, một tên quan tư và nhiều hạ sĩ quan Pháp. Trong những tháng cuối năm 1952, lực lượng vũ trang Liên Huyện phối hợp với các bộ phận trinh sát, đặc công diệt bót Mĩ Khánh (giết chết hai tiểu đội lính Cao Đài), đánh tiêu hao nặng tiểu khu Cần Đước (diệt hầu hết số sĩ quan chỉ huy và hơn một trung đội lính địch).

Hơn một năm thành lập, lực lượng vũ trang Liên Huyện được nhân dân giúp đỡ đã tích cực bám sát địa phương, linh hoạt chiến đấu, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, bảo vệ chính quyền cách mạng cơ sở, góp phần đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh trên địa bàn sát phía Nam thành phố. Cuối năm 1952, lực lượng vũ trang Liên Huyện được Bộ Tư lệnh phân liên khu miền Đông đề nghị Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

Sang năm 1953, diễn biến thực tế trên chiến trường chung có nhiều thay đổi có lợi cho ta. Giặc Pháp đang ở thế bị động. Do phải đưa lực lượng ở Nam Bộ ra chi viện cho chiến trường Trung và Bắc Bộ, các đơn vị tinh nhuệ của địch phần lớn được rút lui; số quân viễn chinh Pháp giảm xuống rõ rệt. Để bù vào chỗ thiếu hụt, chính phủ bù nhìn Bảo Đại ban hành lệnh động viên, ra sức bắt lính, xây dựng gấp rút các đơn vị ngụy quân. Với lực lượng còn lại rất mỏng, địch tập trung vào củng cố các đô thị và các nơi trọng yếu gần vùng căn cứ kháng chiến của ta.

Tại Sài Gòn, đầu năm 1953, hoạt động bắt lính của địch ở nội thành và các nơi đông dân diễn ra ráo riết. Các cuộc lùng sục vây ráp lục soát sảy ra thường xuyên cả ngày lẫn đêm. Địch bắt được một số lượng thanh niên đánh kể đưa vào phục vụ trong các đơn vị ngụy quân mới được thành lập. Do địch vây ráp ác liệt, một số ít cán bộ chiến sĩ và cơ sở của ta nao núng ra đầu hàng. Địch lợi dụng tin tức khai thác được, ra sức đánh phá các cơ sở của ta còn lại trong nội thành. Với trên hai vạn cảnh sát, công an, chúng ngăn chặn được phần lớn sự hoạt động đi lại của ta, gây cho ta rất nhiều khó khăn. Đánh giá về tình hình bảo đảm an ninh ở Sài Gòn - Chợ Lớn, địch huênh hoang khẳng định: đã ngăn chặn được mọi sự phá hoại, ám sát và các hoạt động chính trị của Việt Minh (!)

Tình hình thiếu cán bộ lãnh đạo chỉ huy ở nội thành vẫn diễn ra. Một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đặc khu được điều động đi nhận công tác khác từ cuối năm 1952. Một số bị địch bắt, một số được rút đi học, số lượng cán bộ của Đặc khu còn lại rất ít, hoạt động phân tán, địa bàn cách xa nên không đủ sức để chỉ đạo trực tiếp phong trào nội thành.

Trước tình hình đó, Đặc khu ủy chủ trương: 1) Giải thế các ban tham chính, tập trung một số cán bộ cốt cán về một đầu mối để hoạt động có hiệu quả hơn. 2) Rút một số cán bộ trong nội thành và các ban tham chính cùng các đồng chí lãnh đạo Đặc khu ra ngoài chiến khu để học lớp chỉnh huấn mang tên Trường Chinh của Trung ương Cục. 3) Đặc khu ủy phân công đầu mối trực tiếp chỉ đạo ở nội thành.

Thực hiện chủ trương của Đặc khu ủy, đa số các đồng chí lãnh đạo chủ chốt được triệu tập ra chiến khu để học tập. Cho đến cuối năm 1953, Đặc khu ủy chỉ còn lại hai đồng chí. Mặc dù thiếu cán bộ, cơ sở bị lộ vỡ và đứt liên lạc nhiều, nhưng đồng bào thành phố, đặc biệt công nhân trong các hãng xưởng, vẫn chủ động đấu tranh. Đáng kể là những trận đấu tranh của 3000 công nhân lao động dịch vụ ở các trại nhà binh (tháng 9 năm 1953), công nhân các nhà in Danh, Viễn Đông ấn quán (tháng 10 năm 1953), công nhân hãng dầu Shell (tháng 10 năm 1953), công nhân ô tô buýt, công nhân dệt (tháng 11 năm 1953). Cùng với các cuộc đấu tranh của công nhân, xí nghiệp, đồng bào lao động vùng Xóm Chiếu, cầu Cống (Khánh Hội) đấu tranh đòi chính quyền phải sửa chợ, xây dựng trường học, nhà bảo sanh… Lúc đầu hình thức làm đơn kí tên, phân công từ 10 đến 20 chị em phụ nữ đón gặp các “ông nghị” để đưa đơn. Về sau địch cho lính đuổi bắt, ta tổ chức đồng bào biểu tình để vạch mặt chúng. Trước tinh thần đấu tranh của đồng bào, địch không dám cho cảnh sát xuống đuổi chợ nữa và cho sửa lại chợ Xóm Chiếu, đồng thời cho dọn về sinh ở các khu lao động. Cuộc đấu tranh giành được thắng lợi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:49:59 am »

Tại Gia Định, cuối năm 1952 sang đầu năm 1953, tình hình trong tỉnh vẫn trong tình trạng hết sức khó khăn. Tuy địch có rút bớt lính Âu Phi, song khu vực xung quanh Sài Gòn, ngụy quân, ngụy quyền và các loại tay sai phản động còn dày đặc. Chúng mở các đợt đánh ta quyết liệt, triền miên ở nhiều nơi, có trận rất nặng nề. Trong lúc đó, chúng ta vẫn chưa chuyển kịp phương châm đấu tranh trên từng vùng cho phù hợp với hoàn cảnh. Việc tổ chức chống lại địch do đó thường bị động, lúng túng, ít hiệu quả, và bị tổn thất nặng. Riêng ở Gò Vấp trong ba tháng cuối năm 1952 và đầu năm 1953, giặc giết gần 200 cán bộ quân dân chính huyện, xã. Ở Trung Huyện, 2 tháng, cán bộ ta chết gần 1000 người. Một bộ phận lớn nhân dân buộc phải bỏ ra vùng tạm bị chiếm. Số cán bộ chiến sĩ ta dao động bỏ ngũ ngày một đông hơn. Đặc biệt ở Đức Hòa Thành, trong thời gian 3 tháng đã có gần 400 cán bộ, đội viên, nhân viên cơ quan bỏ ngũ (trong đó có 1 ủy viên thường vụ huyện ủy và 1 huyện ủy viên). Trong một vài xã căn cứ (Đông Thành cũ), dân bỏ đi đến 80-92%.

Trước tình hình khó khăn trên, tháng 4 năm 1953, tỉnh ủy họp hội nghị cán bộ, uốn nắn biểu hiện tư tưởng giảm sút ý chí chiến đấu, bồi dưỡng nhiệt tình và phương pháp đấu tranh cách mạng. Hội nghị đã quán triệt nhiệm vụ và phương thức chuyển hướng hoạt động theo phương châm ba vùng của Trung ương Đảng, tạo lại thế đấu tranh mới, nhằm giữ vững phong trào du kích chiến trong lòng địch, chuyển vùng tạm bị chiếm sang vùng du kích, tiến tới giải phóng từng nơi.

Đa số cán bộ trong tỉnh hiểu không đầy đủ nội dung chuyển hướng phương pháp công tác của trên đã có những biểu hiện hữu khuynh trong chỉ đạo phong trào ở các địa phương. Tỉnh ủy lại bận lo sắp xếp thu hẹp lại tổ chức cán bộ để tránh bị tổn thất. Một số cán bộ có tư tưởng thúc thủ, chịu chấp nhận cho địch lấn chiếm các vùng du kích, vùng bàn đạp để bảo vệ người, bảo vệ cơ sở.

Việc triển khai thực hiện chủ trương của tỉnh tại các địa phương thiếu sự thống nhất, đồng bộ. Đến mùa hè năm 1953, phong trào du kích chiến tranh trên toàn tỉnh bị giảm sút rõ rệt. Địch chiếm được một số vùng căn cứ bàn đạp của ta ở Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp. Mọi hoạt động kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm gần như ngừng hẳn. Tại các căn cứ, bộ đội, cán bộ gặp nhiều khó khăn về lương thực, thực phẩm và các loại hàng hóa cần thiết khác.

Tháng 10 năm 1953, Tỉnh ủy Gia Ninh triệu tập Hội nghị cán bộ kiểm điểm tình hình thực hiện sự chuyển hướng. Tỉnh ủy đã tự kiểm điểm về những khuyết nhược điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo 6 tháng vừa qua và đề ra một số biện pháp nhằm kịp thời chỉ đạo uốn nắn lệch lạc ở các địa phương, từng bước đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh ở cả ba vùng kháng chiến, đẩy mạnh tiến công ở vùng sau lưng địch. Sau hội nghị, Tỉnh ủy Gia Ninh thận trọng sắp xếp lại cán bộ Đảng và chính quyền các cấp, cử cán bộ phối hợp với các đội đặc phái, đội vũ trang tuyên truyền tỏa về cơ sở vùng du kích và vùng tạm bị chiếm hoạt động khôi phục và xây dựng mới các cơ sở, phát triển lực lượng du kích. Lực lượng vũ trang tỉnh và huyện đẩy mạnh tiến công địch trở lại. Cuối năm 1953, ta chủ động tấn công vào các căn cứ của quân đội Cao Đài phản động ở bót cầu Ván, bót cầu Xe, An Tịnh (Trảng Bàng), đánh những trận giao thông chiến trên đường 22 (Tây Ninh), đường số 10 (Đức Hòa)… Ngoài lực lượng địa phương tỉnh, tiểu đoàn chủ lực của phân liên khu miền Đông 302 phối hợp lưu động đánh một số trận lớn. Tháng 8 năm 1953, đại đội 80/302 đã chặn đánh tiểu đoàn 61BVN ngụy càn vào căn cứ Đức Hòa, diệt 105 tên. Tiếp đó, ngày 13 tháng 9, tiểu đoàn 302 lại đánh gãy cuộc càn quét của một tiểu đoàn Lê dương, tiêu diệt 70 tên, làm bị thương 33 tên, bắt sống 25 tên khác. Những trận đánh lớn trên đây làm tăng thêm tin tưởng của nhân dân đối với cách mạng. Tinh thần của quần chúng lên cao. Trong vùng địch kiểm soát, quần chúng tự động bao vây đồn bót địch, bao vây bọn tề điệp, trừng trị bọn ác ôn, làm tê liệt mọi hoạt động của chúng. Những tên có nợ máu với nhân dân buộc phải chuyển vùng, chạy ra thành thị. Phong trào kháng chiến phát triển rầm rộ trở lại. Nhiều người dân trước kia bỏ ruộng vườn đi nơi khác nay trở về quê cũ làm ăn. Hàng rào ngăn cách giữa đồng bào vùng địch tạm chiếm, vùng thành thị với đồng bào vùng căn cứ, vùng nông thôn do ta kiểm soát bị phá vỡ. Chính sách phong tỏa bao vây kinh tế của địch mất dần tác dụng. Không khí phấn khởi lạc quan lan nhanh trên cả hai vùng: vùng ta kiểm soát và vùng giặc tạm chiếm.

Tại chiến trường Rừng Sác, quân địch do bị giảm quân số nên ít tổ chức tấn công, càn quét bằng bộ binh. Thay vào đó chúng cho máy bay, pháo binh bắn phá vào căn cứ của ta. Song song với việc bắn phá, địch tăng cường công tác do thám, gián điệp và điều tra cán bộ, nhân viên ta cho về hoặc đào ngũ để khai thác tài liệu, giúp các đội biệt kích đột kích đánh phá. Riêng trong tháng 4 năm 1953, liên tiếp trong 20 ngày liền, máy bay địch ném hàng trăm trái bom xuống Rừng Sác ở Rạch Cát. Chúng tập trung hàng chục khẩu đại bác ngày đêm nhả đạn vào nơi nghi vấn. Các đơn vị vũ trang của Liên Huyện vẫn giữ vững tinh thần, tiếp tục bám địa bàn, tăng gia sản xuất để tự cấp, tự túc. Tháng 8 năm 1953, hai trung đội của Liên Huyện đánh tan hai trung đội biệt kích của địch, bảo vệ an toàn các cơ quan dân chính đảng của huyện và các xã. Tháng 11 năm 1953, bộ đội Liên Huyện phối hợp với lực lượng binh chủng chuyên môn đánh chìm hai tàu địch, diệt hơn một trung đội biệt kích. Tiểu đoàn 300 của tỉnh cũng liên tiếp đánh vào địch trên sông Lòng Tàu, Soài Rạp, Bà Nghĩa, Đồng Tranh. Chỉ tính từ tháng 6 năm 1953 đến tháng 7 năm 1954, tiểu đoàn 300 cùng với lực lượng vũ trang Liên Huyện đã đánh chìm 32 tàu giặc, diệt hàng trăm tên địch, trong đó có 1 trung tá, 1 thiếu tá, 4 đại úy và nhiều sĩ quan Pháp khác.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:50:37 am »

*
*   *

Cuối năm 1953, cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang có những bước phát triển quan trọng. Tại Nam Bộ, Trung ương Cục điều một số cán bộ từ các nơi về bổ sung cho Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn để tăng cường khả năng lãnh đạo phong trào nội thành. Phần lớn số cán bộ của Đặc khu ra vùng giải phóng chỉnh huấn xong cũng được đưa về nội thành tiếp tục hoạt động. Đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh về làm bí thư Đặc khu ủy. Trên cơ sở đó, Đặc khu thành lập hai ban cán sự nội thành:

- Ban cán sự A phụ trách công tác chỉ đạo phong trào trong giới công nhân lao động, bao gồm cả lao động ở địa bàn dân cư, do Huỳnh Văn Tâm (Hai Lợi) làm bí thư.

- Ban cán sự B phụ trách vận động các tầng lớp trí thức lớp trên và học sinh, sinh viên, công chức, do Huỳnh Tấn Phát làm bí thư.

Để có đủ cán bộ chỉ đạo phong trào nội thành đáp ứng với nhu cầu trong tình hình mới, sang năm 1954, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn cử Huỳnh Văn Tâm đưa một số cán bộ ra ngoài chiến khu mở lớp tập huấn công tác, đồng thời đề nghị Trung ương Cục cho thêm một số cán bộ ở tỉnh về học tập để bổ sung cho thành phố. Vừa tập huấn, vừa tranh thủ củng cố lại tổ chức Đảng, Đặc khu ủy xây dựng kế hoạch thành lập các chi bộ từ ngoài chiến khu từng bước đưa về bố trí hoạt động trong nội thành. Mặt khác, Đặc khu còn cử Trần Quốc Thảo trực tiếp vào nội thành xây dựng các chi bộ hoàn toàn mới nhằm tránh bị lộ hoặc bị địch cài gián điệp vào phá hoại. Toàn bộ công tác sắp xếp phát triển lực lượng nêu trên được thực hiện chuẩn bị cho hai khả năng có thể xảy ra:

1/ Nếu có hiệp định hòa bình, phải chuẩn bị gấp cho phong trào ra hoạt động công khai.

2/ Xây dựng các tổ chức hoàn toàn mới để phù hợp với tình hình diễn biến có thể xấu đi.

Bước sang năm 1954, nhờ có lực lượng cán bộ hùng hậu, tổ chức chặt chẽ và hợp lí, phong trào ở Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn từng bước được củng cố, ổn định và phát triển trở lại.

Tại Gia Ninh, sang năm 1954, phong trào kháng chiến cũng có những bước phát triển mới. Du kích chiến tranh phát triển đều và khá rộng khắp. Nhiều nơi, quần chúng tự động nổi dậy cướp đồn bót địch. Ban đêm, nông dân tay cầm dao, tay cầm cuốc xông vào bao vây bót, kêu gọi địch đầu hàng, thiêu hủy đồn bót. Phong trào bao vây đồn bót địch nổi lên khắp toàn tỉnh. Chỉ trong tháng 3 năm 1954, gần 20 đồn bót địch đã bị nhân dân tiêu diệt. Cùng với phong trào lấy bót giặc, tiểu đoàn 306 liên tục chống càn và tiến công địch khắp mọi nơi. Ngày 10 tháng 3 năm 1954, tiêu diệt gọn một đơn vị địch từ bót Lí Văn Mạnh hành quân vào cầu Xáng (Trung Huyện). Cũng trong tháng 3, tiểu đoàn đã tiêu diệt một trung đội Cao Đài phản động ứng chiến liên khu vực đi bắt xâu tại ấp Lộc Vinh. Ngày 21 tháng 5 năm 1954, tiêu diệt gần 1 đại đội Cao Đài trên đường số 6 phía Nam Trảng Bàng…

Tại Liên Huyện, theo chủ trương của Tỉnh ủy Bà Chợ, sau một thời gian dài chiến đấu trên chiến trường Rừng Sác, các đơn vị thay nhau lần lượt rút về hậu cứ một thời gian ngắn để củng cố rồi trở lại địa bàn giúp dân đấu tranh với địch, hỗ trợ cơ sở tại chỗ diệt tề, trừ gian, phá thế kềm kẹp. Tháng 2 năm 1954, tại chợ Mới Long Định, lực lượng vũ trang Liên Huyện bắt sống tên Cai Tổng, một Việt gian khét tiếng độc ác. Sau đó, các trung đội tỏa về phía Nam huyện đánh mạnh vào các cứ điểm của địch và đẩy mạnh phong trào quần chúng nổi dậy trừ gian, diệt tề. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1954, lực lượng vũ trang huyện đã tiêu diệt 4 bót, 4 tháp canh và đánh 5 trận lớn nhỏ, tiêu hao nặng 5 bót khác, diệt 150 tên, bắt sống trên 100 tên và thu nhiều vũ khí.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 25 Tháng Ba, 2012, 08:51:11 am »

*
*   *

Nhịp độ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra mau lẹ, khẩn trương trong những ngày đầu mùa hè 1954. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Tin tức từ Điện Biên Phủ và hội nghị Genève bay về làm nức lòng đồng bào Nam Bộ, thúc dục đồng bào Nam Bộ tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh một cách toàn diện công cuộc kháng chiến, giành những thắng lợi cao nhất.

Trong nội thành Sài Gòn, phong trào đấu tranh chính trị của các giới diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các báo tiếng Việt, tiếng Pháp xuất bản ở Sài Gòn đưa tin thất bại thảm hại của Pháp ở Điện Biên Phủ và diễn biến cuộc hòa đàm ở Genève. Công nhân ở các nhà máy, học sinh ở các trường học bãi công, bãi khóa hàng loạt. 352 trí thức Sài Gòn kí vào bản tuyên ngôn đòi quân đội Pháp ngừng cuộc chiến tranh xâm lược. Cơ sở của ta phục hồi và phát triển rộng khắp trong các quận, hộ nội đô. Các lõm du kích hình thành và lấn sâu vào sát thành phố. Tinh thần quân Pháp và ngụy quân, ngụy quyền ở Sài Gòn lung lay, có nơi đã bộc lộ sự rệu rã. Hệ thống đồn bót xung quanh thành phố bị co rút lại. Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ, tướng Bondis phải kêu lên: “Nguy cơ có thể mất Sài Gòn”.

Ỏ vùng ngoại ô thuộc tỉnh Gia Định và Bà Chợ, Thủ Biên, phong trào du kích chiến tranh phát triển đều khắp. Bộ đội kết hợp với du kích địa phương vừa chống càn, phục kích, tập kích, vừa cùng nhân dân “làm địch ngụy vận”, diệt được nhiều địch, bức rút hàng chục đồn bót, làm tan rã phần lớn lực lượng tề ngụy. Nhiều vùng nông thôn ở Hóc Môn, Trung Huyện, Liên Huyện, Thủ Đức, Nhà Bè được giải phóng. Các căn cứ địa, lõm du kích bàn đạp được mở rộng, trở thành một hệ thống thông nối khá liên hoàn xung quanh thành phố, làm chỗ dựa cho các lực lượng nội thành đẩy mạnh hoạt động vũ trang.

Chỉ hơn ba tuần sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Quyết Tử quân Sài Gòn đã đánh bồi cho quân Pháp một đòn choáng váng, vào đêm 31 tháng 5 rạng ngày 1 tháng 6 năm 1954. Đó là “sự kiện kho bom Phú Thọ Hòa”. Kho Phú Thọ Hòa nằm trong một cánh rừng cao su rộng trên 3km2 ở phía Tây Nam sân bay Tân Sơn Nhất. Kho bom chia làm ba khu vực, gồm nhiều dãy nhà kho lớn chứa bom đạn các loại và xăng dầu của quân viễn chinh Pháp. Nó được mệnh danh là “dạ dày của cuộc chiến tranh” của quân đội Pháp ở Nam Bộ. Để bảo vệ kho, địch tổ chức một hệ thống phòng thủ kiên cố, nghiêm ngặt. Xung quanh khu vực kho có những bót gác (cách nhau 100 mét) và các trụ điện (cách nhau 25 mét) có gắn đèn pha cực mạnh, đường giao thông giành cho xe cơ giới qua lại tuần tiễu thường xuyên, 6 lớp rào gai và đường mương (rộng 5 mét) già mìn dày đặc. Một đại đội lính Âu Phi và chó bécgiê làm nhiệm vụ túc trực canh gác trong kháng chiến kho. Lính ngụy tuần tiễu vùng ngoài hàng rào và thường xuyên lùng sục càn quét ở các khu vực xóm ấp xung quanh.

Từ cuối tháng 5 năm 1954, Ban chỉ huy đội đặc công Quyết tử 205 của Đặc khu đã cài được hai chiến sĩ trinh sát viên vào làm cu li khuân vác trong khu vực kho. Hai chiến sĩ đã tiến hành nghiên cứu mục tiêu suốt gần một năm và hướng dẫn các bộ phận chiến đấu của ta nhiều lần đột nhập và xác định các điểm đánh. Tháng 2 năm 1954, một tổ đặc công gồm Bùi Văn Ba, Phạm Văn Hai, Tạ Ninh Dục được nội tuyến hướng dẫn đường đã đột nhập khu kho, rà lại một lần nữa kế hoạch tiến công trên thực địa. Công việc chuẩn bị cho trận đánh được tiến hành rất khẩn trương dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ huy quân sự Đặc khu và Ban chỉ huy đại đội 205. Đêm ngày 29 tháng 5 năm 1954, 12 chiến sĩ do chính đại đội trưởng Nguyễn Văn Cự (Ba Huỳnh) chỉ huy rời vừng bàn đạp xuống chiến trường. Đêm ngày 30 tháng 5 năm 1954, lực lượng luồn vào ém bí mật trong một đường hầm dài 200 mét gần mục tiêu. Tối ngày 31 tháng 5 năm 1954, đột nhập vào khu vực kho. Vượt qua toàn bộ hệ thống phòng thủ dày đặc của địch, các chiến sĩ chia thành 3 tổ tiếp cận từng mục tiêu đã phân công, lắp kíp vào mìn hẹn giờ, đặt trái vào từng kho, và lẹ làng rút lui an toàn. Mìn nổ gần như đồng loạt. Toàn bộ khu vực kho bom chìm trong biển lửa và âm thanh dữ dội của tiếng bom nổ. Hơn một triệu lít xăng dầu, 10.000 tấn bom đạn, 1 đại đội lính Âu Phi biến thành tro bụi.

Ngày 1 và 2 tháng 6, tất cả các báo ở Sài Gòn và Hà Nội đều đưa tin kho bom Phú Thọ Hòa bị “Việt Minh tấn công”. Thắng lợi của trận đánh gây một tiếng vang lớn, càng làm tăng thêm tinh thần náo nức, phấn chấn trong các giới đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Đây là trận đánh đặc công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Nó cũng là tiếng nổ thắng lợi kết thúc một chặng đường chiến đấu oanh liệt ở nội thành của Quyết tử quân Sài Gòn trong 9 năm kháng chiến. Đơn vị tham gia trận đánh được Chính phủ tặng Huân chương Quân công hạng hai.

Ở phía Nam thành phố, tại chiến khu Rừng Sác, lực lượng đặc công nước và công binh cũng lập được nhiều thành tích trong đánh tàu, diệt sinh lực địch, chặn con đường giao thông thủy huyết mạch từ thành phố ra biển. Trong tháng 6, các chiến sĩ đặc công Rừng Sác đánh chìm 3 tàu chiến chở toàn quân Pháp trên sông Lòng Tàu.

Tiếng nổ ở kho bom Phú Thọ Hòa và trên dọc sông Lòng Tàu Rừng Sác cũng là những nốt nhạc cuối cùng của bản đại hợp xướng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí kết. Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam!

Ở thành phố Sài Gòn, đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh, bí thư Đặc khu ủy, được Trung ương điều đi nhận nhiệm vụ mới. Đặc khu ủy còn lại ba đồng chí do Trần Quốc Thảo giữ chức vụ Quyền Bí thư, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thành phố cùng các bộ phận cán bộ chiến sĩ ở lại thực hiện Hiệp định Genève. Bộ phận cán bộ chiến sĩ được phân công tập kết ra miền Bắc tập hợp thành một tiểu đoàn lưu luyến chia tay đồng bào thành phố với lời hứa hẹn sớm trở về.

Tỉnh Gia Định tách ra thành hai tỉnh như cũ: Tây Ninh và Gia Định. Tỉnh ủy Gia Định khôi phục lại phạm vi cũ của tỉnh, nhanh chóng kiểm tra lực lượng, và chia làm hai bộ phận. Một bộ phận cùng với số cán bộ chiến sĩ tổ chức lại thành trung đoàn 5 đi tập kết ra Bắc. Bộ phận ở lại, do Phan Khải làm bí thư, tiếp tục điều chỉnh tổ chức, bố trí lực lượng xuống tận các xã ấp, lãnh đạo nhân dân bước vào thời kì đấu tranh mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM